“Tam thẩm đừng cười cháu nữa.” Thiếu Thương bất lực, ngồi trên ghế đối diện với Tang phu nhân cười nghiêng ngả, “Rốt cuộc chuyện này buồn cười chỗ nào.”
Tang phu nhân ngồi thẳng người lên: “Năm năm trước, cháu thấy Hoàng đế và Hoài An vương Thái hậu thân mật, còn ghen tị nói với ta ‘không biết bệ hạ và Việt nương nương ở bên nhau thế nào’. Năm năm qua cháu thấy rõ rồi đấy, kết quả vẫn ghen tị. Cháu nói đi, tổng cộng bệ hạ chỉ có hai người phụ nữ, rốt cuộc cháu còn muốn ngài ấy như thế nào nữa.”
“Ôi, đâu có giống nhau.” Thiếu Thương chống cằm thở dài, “Năm năm trước, hành động thân mật nhất của bệ hạ và Thái hậu cũng chỉ là tựa đầu ngắm cảnh, lúc ấy cháu đã cảm thấy lạ. Tới mấy năm qua, cháu mới biết vợ chồng khắng khít thân thiết thật sự là như thế nào.”
Vì sao lúc ấy con bé lại cảm thấy lạ, đương nhiên là vì con bé so sánh với những lúc mình và Hoắc Bất Nghi ở bên nhau, phát hiện giữa đế hậu có vẻ không quá mặn nồng – Tang phu nhân không vạch rõ điểm này mà nói: “Chẳng mấy khi cháu được xuất cung, ta cũng ít dịp quay về đô thành, nếu cháu còn muốn nói chuyện về An Dương vương Thái hậu nữa thì ta đi liền.” Vừa nói vừa giả vờ toan đi.
Thiếu Thương vội níu lại. Kể ra cũng kỳ quặc, nàng và Tang phu nhân rất tâm đầu hợp ý, bao gồm quan điểm với thế sự, yêu thích, tập tính, thậm chí là cách mắng người khác cũng rất hợp nhau, nhưng chỉ có chuyện về Tuyên Thái hậu là hai người lại trái ngược.
Nhất là khi Tang phu nhân biết Thiếu Thương trở thành cung lệnh Vĩnh An cung, bà càng phản đối kịch liệt hơn. Năm năm qua, bà đã nghĩ đủ cách cho Thiếu Thương như cáo bệnh, bị thương, đi xem mặt… Tóm lại là yêu cầu nàng nhanh chóng xuất cung về nhà.
“Vì sao thẩm lại không thích Thái hậu? Thái hậu là người tốt mà.” Thiếu Thương không hiểu.
Tang phu nhân xoay người, mỉa mai: “Thúc phụ cháu cũng là người tốt, nhưng tới bây giờ ta vẫn coi thường ông ấy. Có điều từ khi ông ấy và Thanh Thung thành thân thì trông thuận mắt hơn rồi đấy. Cháu ở trong cung năm năm nên tầm nhìn hẹp dần, hoài bão cũng mai một, suốt ngày chỉ biết mấy chuyện phù du cái kim sợi chỉ – cháu tự soi gương đi, còn nhận ra bản thân không!”
Thiếu Thương phản bác: “Bệ hạ cũng ở trong cung đấy thôi, ngài ấy còn cai quản cả thiên hạ, lẽ nào tầm nhìn và hoài bão của bệ hạ cũng nhỏ?”
“Nhưng cháu suốt ngày ở bên cạnh Hoài An vương Thái hậu, gần mực thì đen gần đèn thì rạng! Ta sợ cháu sống lâu với bà ấy rồi cũng thành oán phụ!” Tang phu nhân đi đến khép cửa sổ, tức giận nói, “Dù Việt Hoàng hậu không được tốt tính, nhưng ta muốn cháu được rèn giũa trong cung của Việt nương nương hơn là đần độn bên cạnh Tuyên Thái hậu!”
“Không công bằng! Năm ấy mưa gió liên miên, bệ hạ phải tự mình xuất chinh, nhưng việc gì cũng có bất trắc, đao gươm không có mắt, thế nên trước khi xuất chinh ngài ấy đã vội vàng lập Đông Hải vương còn chưa đến hai tuổi làm trữ quân, trấn an thiên hạ – bệ hạ không thể như vậy, lúc cần thì phong hậu lập trữ, khi không cần lại nhướn bên trái soi bên phải, đâu phải chỉ nương nương và Đông Hải vương muốn làm Hoàng hậu và Thái tử!” Thiếu Thương giận dỗi, “Xét cho cùng, đều là Kiền An lão vương gia đẩy nương nương vào hố lửa!”
“Số mệnh của Tuyên nương nương tốt quá còn gì!” Tang phu nhân không hề lay động, “Năm ấy tự tay ta nhặt thi thể của bạn thân mình, gia thế môn đệ của nàng không hề thua kém Tuyên gia! Đáng tiếc nàng không có cữu phụ ‘đẩy nàng vào hố lửa’ bảo vệ, một khi phòng vệ không cẩn thận, quê hương bị hãn phỉ nhúng máu, mẹ con họ chết cực kỳ thê thảm, Tuyên nương nương của cháu có chịu khổ vậy không?!”
“Thẩm bất kính rồi đấy!” Thiếu Thương cau mày.
“Vậy cháu cứ đi tố cáo ta đi!” Tang phu nhân mắng, “Ăn uống đầy đủ sống yên ổn mấy chục năm, vậy mà suốt ngày oan bên này uất bên kia, cháu lại còn đi theo! Sớm biết thế, năm năm trước ta nên nhân lúc cháu hôn mê mà đưa cháu lên xe ngựa đi cùng, để cháu ra ngoài nhìn bá tánh sinh sống ra sao, trăm họ chịu khổ thế nào. Hừ, cái ăn cái mặc đầy đủ lại còn oán hận đời, nhịn đói mấy ngày là biết liền!”
Thiếu Thương không phục: “Nhờ cháu hầu hạ Thái hậu mà phụ thân và huynh trưởng được thăng chức đấy!”
Tang phu nhân chỉ nói lại một câu: “Dùng cháu để đổi lấy thăng quan phát tài, trong lòng cha anh cháu còn đau hơn bị khoét thịt!”
Trước ánh mắt đầy áp bách của thẩm thẩm đại nhân, Thiếu Thương không thể không im lặng.
Tang phu nhân hài lòng trợn mắt, nói tiếp: “Khi sống trong thời đại ăn lông uống máu, con người dựa vào bản lĩnh mới đánh bại cự thú hung dữ mạnh mẽ, trở thành thần của vạn vật. Nhưng bắt đầu từ bao giờ, con người lại ca ngợi sự đần độn là trung hậu, thổi phồng yếu đuối là nho nhã, nghĩ thật nực cười!”
“Thẩm nói hơi xa rồi.” Thiếu Thương muốn nghiêng người né tránh, nhưng Tang phu nhân đã kéo tay nàng lại, “Trong nhân sinh trời đất, sống dựa vào bản lĩnh của mình. Tuyên thị làm hậu là nhờ tờ minh ước năm xưa và sự kính trọng của bệ hạ với bà ấy, Việt thị dựa vào tình cảm của bệ hạ, ngày nào đó bệ hạ cạn tình, cháu xem Việt nương nương có chịu thua cuộc không!”
Thiếu Thương không tình nguyện thừa nhận: “Việt nương nương chắc chắn sẽ không giống Thái hậu. Có lần cháu bẩm báo với nương nương về bệnh tình của Thái hậu, người chỉ lẩm bẩm đúng một câu ‘ta sẽ không đổ bệnh, nếu ngày nào đó bệ hạ không còn tình cảm với ta thì đó chính là ngày giỗ của ta’. Ây da, Tam thẩm đừng hù cháu nữa!”
Tang phu nhân gật đầu: “Ừ, nghe cũng giống người có cá tính đấy.”
“Việt nương nương đúng là kỳ quặc.” Thiếu Thương ngẩng đầu nhớ lại, “Người thật sự không quan tâm tới hư danh như phân vị tôn vinh, bệ hạ vẫn chưa làm đại điển phong hậu cho người, vậy mà người không hề giận; cống quả bệ hạ cho Thái hậu còn tươi hơn người, người cũng không tức giận, nhưng nếu bệ hạ hỏi nhiều vài câu như Thái hậu có khỏe không, người sẽ tức khắc mắt không ra mắt mũi không ra mũi.”
Có lẽ vì sống quá lâu trong môi trường an toàn ổn định, Thiếu Thương cảm thấy suy nghĩ của bản thân cũng dần bế tắc, giờ đây được Tang phu nhân chỉ rõ, lần đầu tiên nàng đứng ở góc độ của người ngoài để nhìn tử cục giữa ba người đế hậu phi.
Tính cách của Tuyên Thái hậu đúng là hơi nhu nhược tiêu cực, nếu bà ở vị trí của Việt thị, phải khuất phục làm thiếp mấy chục năm thì có lẽ sớm muộn gì cũng chết vì uất ức, rồi nếu gặp phải lễ nghi hơi thiếu tôn trọng, cấp dưỡng chậm trễ, đoán chừng lại thở ngắn than dài.
Tại sao Việt Hoàng hậu lại không để ý đến những chuyện này, vì bà chắc chắn tình cảm của Hoàng đế dành cho mình – khác với thời trẻ xót xa của Tuyên Thái hậu, Việt Hằng lớn lên trong hoàn cảnh tinh thần vật chất được đầy đủ sung túc, từ nhỏ đã xinh đẹp thông minh, lại được gia tộc lớn mạnh coi như châu báu.
Khi ba người đế hậu phi ở bên nhau, hai người cùng cảnh nương nhờ ở đậu lại không nảy sinh sự đồng cảm, mà trái lại, Hoàng đế và Việt thị tính cách trái ngược nhau vô cùng tâm đầu ý hợp.
Thiếu Thương từng tận mắt thấy Hoàng đế xót xa kể với Tuyên Hoàng hậu cha mẹ mình mất sớm, Tuyên Thái hậu xúc động nói mình ở Kiền An vương phủ uất ức thế nào, nhìn rất ăn ý rất tốt đẹp, nhưng bầu không khí trong điện lại sa sút dần.
Còn Việt Hoàng hậu thì sao, có lẽ sẽ dứt khoát nói ‘chia nửa cha mẹ ta cho ngài là được chứ gì’!
Hoàng đế có bệnh chung của cánh đàn ông: phụ nữ của mình uất ức chút không sao, nhưng phải khách khí với ‘người ngoài’; Việt hậu biết điều ấy, hơn nữa những đứa trẻ lớn lên trong môi trường ấm êm thường không nhạy cảm, nên dù Hoàng đế có khuyết điểm bà vẫn mắt nhắm mắt mở cho qua, Tuyên hậu cũng biết điểm này nhưng tâm tư quá nhạy cảm, nên mới đau khổ gấp bội.
Bao năm qua Thiếu Thương làm thinh đứng nhìn, phát hiện Việt Hoàng hậu có dục vọng chiếm hữu kỳ lạ với Hoàng lão bá – trong mắt Việt Hoàng hậu, từ đỉnh đầu cho đến ngón chân của Hoàng lão bá đã cao tuổi, dù một sợi tóc bạc, một nếp nhăn hay một câu nói mớ lúc say… đều thuộc về bà; nỗi đau lớn nhất trong đời bà có lẽ là không thể chia Hoàng đế ra làm nửa.
Nên sau khi Tuyên thị bị phế hậu bà mới hân hoan, không phải vui vì mình được làm Hoàng hậu, mà là từ nay trở đi Hoàng đế đã thuộc về bà hoàn toàn, nên đương nhiên không cần so đo đại điển phong hậu làm gì.
Tang phu nhân cẩn thận nhìn gương mặt cô bé, biết nàng đã xao động, thế là mồi thêm bó đuốc: “Vả lại, bệ hạ có thích Việt nương nương tới đâu cũng sẽ không vì vậy mà phế hậu. Tuyên Thái hậu bị chỉ đơn giản là vì triều cục!”
Thiếu Thương thở dài: “Cũng do Đông Hải vương quá hiền.”
“Cháu ở đô thành, hẳn phải luôn biết Đông Hải vương thường xuyên phạm lỗi, thuận tiện cho rằng Đông Hải vương không đúng, nhưng thực chất không phải thế.” Tang phu nhân nói, “Ta cũng chỉ mới nghĩ ra khi về núi Bạch Lộc một chuyến vào hai năm trước.”
Thiếu Thương căng thẳng: “Sao ạ?”
Tang phu nhân nói: “Đông Hải vương thiếu hiền danh. Cậu ấy có danh vọng với bách tính, danh sĩ miền núi thường so với Phù Tô đời Tần, trung hậu nhân ái. Nhưng bách tính và danh sĩ miền núi sùng bái thì sao? Cậu ấy không trấn áp được các trọng thần thế tộc ở trong triều, chuyện lớn chuyện nhỏ cũng làm không xong.”
“Thiếu Thương, ngày trước ta từng dạy cháu học hành, cháu phải biết hai điều. Thứ nhất, khi thành lập triều đại mới, quan trọng nhất là hai quốc quân đời đầu, chỉ cần kéo dài đến quân vương đời thứ ba thì lòng dân đã định, chúng thần khâm phục, phúc của quốc gia có thể kéo dài – như bạo Tần chỉ hai đời đã diệt vong, sai ở Hồ Hợi.”
Thiếu Thương nghiêm túc lắng nghe: “Vậy còn điều thứ hai.”
“Thứ hai, quân yếu thần mạnh không phải là điều may mắn.” Tang phu nhân nhẹ nhàng nói, “Cho nên phiền phức kéo đến, quốc quân đời thứ hai cực kỳ quan trọng, nhưng Đông Hải vương lại chẳng áp chế được những trọng thần như hổ sói. Vậy phải làm sao đây? Thực ra bệ hạ còn một biện pháp khác, Thiếu Thương, cháu còn nhớ câu chuyện Tần Mục công bắt ba lương thần tuẫn táng cùng không?”
“Có
ạ có ạ!” Thiếu Thương gật đầu thật mạnh, nói khẽ, “Khi ấy thẩm nói, Tần Mục công chiêu nạp hiền tài, vậy mà con của Mục công là Khang công quá bình thường. Nói không chừng tuẫn táng là giả, quét dọn khói mù cho Khang công mới là thật. Nhưng…” Nàng vất vả nói, “Bệ hạ nhân hậu, sao nỡ đại khai sát giới với các hạ thần thân như huynh đệ.”
“Cuối cùng cháu cũng đã hiểu.” Tang phu nhân hài lòng gật đầu, thấp giọng nói, “Dù Tần Khang công được an toàn kế vị, nhưng nhân tài Tần quốc chiêu mộ trong mười mấy năm hầu như không còn, khiến Tần quốc lần nữa suy yếu, còn Cao Hoàng đế thông minh hơn nhiều, trừ những vị vương khác họ, ông gần như không động đến công thần khai quốc…”
“Thẩm cho cháu nói đi.” Thiếu Thương khẽ nói, hai mắt rực cháy như lửa.
Nàng tiến đến gần bên tai Tang phu nhân: “Không phải cao Hoàng đế không phế được mẹ con Lã Hậu, nhưng những huynh đệ cũ cùng đánh thiên hạ với ông ấy quá mạnh mẽ, phụ nữ thấm cung như Thích Cơ chỉ biết lấy sắc hầu hạ, Như Ý còn bé nhu nhược, đối mặt với mưu thần hãn tướng như sói hổ thì chẳng khác nào dê vào miệng cọp, nên Cao Hoàng đế mới nhẹ nhàng bỏ qua. Nhưng sau khi phế Lã Hậu lại khác, Hàn Bành là hào kiệt nổi tiếng thiên hạ mà bà ta nói giết là giết, có quần thần nào dám không phục bà ta.”
Tang phu nhân mỉm cười, cảm thấy cuối cùng mình đã châm được lửa.
“Dù bệ hạ và Cao Hoàng đế có tính cách trái ngược, nhưng đã làm quốc quân thì nhất định phải lấy đại cục làm trọng!” Thiếu Thương nhả từng chữ vào bên tai Tang phu nhân, “Thật ra nếu Đông Hải vương là trữ quân sau đời thứ ba, có khi đã có thể làm vua. Nhưng quốc triều chỉ mới lập, nhân tâm bất ổn, nếu bệ hạ không nỡ giết các trọng thần tế giỗ tổ tiên thì chỉ có thể đổi trữ.”
Tang phu nhân cắn răng nghiến lợi: “Vua tôi bọn họ đều sống trong giang hồ đã lâu, trong bụng nghĩ gì sao lại không biết, chẳng qua không huỵch toạc ra thôi! Ngày trước cháu sắc bén biết bao, nhưng mấy năm nay nhốt mình ở Vĩnh An cung nên cù rù ngu ngốc, lại đi cầu hôn Đông Hải vương, thật là đầu óc mê muội, phải đánh một trận mới được! May mà Đông Hải vương không đồng ý. Ta nói cháu biết, dù cậu ta không thể làm quân vương trữ quân, dù người ngoài không bày mưu đặt kế cậu ta, nhưng cả đời này trong lòng cậu ta sẽ mãi không yên, cháu muốn sống cả đời với người đàn ông lo được lo mất như thế sao?!”
“Thẩm thẩm, Thiếu Thương sai rồi!” Thiếu Thương vội quỳ xuống.
Tang phu nhân gật đầu, hài lòng nói: “Coi như Thái hậu có lòng, biết nên cho cháu thành thân. Nếu cháu còn có chí hướng cao rộng như trước thì đã đến lúc cần bay cao tứ phương.”
Bà giũ thật mạnh tay áo, “Vốn chuyến này về là ta muốn mai mối cho cháu, là học trò giỏi của huynh trưởng ta, vì thủ hiếu nên lỡ dở hôn sự. tướng mạo nhân phẩm đều không tệ, tài sản cũng phú quý, tới khi ấy cậu ta nghiên cứu tri thức, cháu làm guồng nước mái ngói gì đó, có thời gian rảnh lại chu du thiên hạ, có phải rất tốt không?!”
“Thẩm thẩm!” Thiếu Thương cười khổ.
Tang phu nhân nở nụ cười ương bướng: “Nhưng thẩm xem thường cháu, uổng công bận tâm, không ngờ cháu trốn ở Vĩnh An cung mà cũng có người ngày ngày đến cửa! Ta thấy họ Viên ấy cũng tốt, còn tốt hơn cậu học trò của huynh trưởng nhà ta nhiều, tính toán lý lịch thì cũng là thời điểm ra ngoài quận nhậm chức, tới khi ấy cháu hãy cùng cậu ta lui tới bên ngoài, ừ, như vậy rất tốt!”
Thiếu Thương buồn cười trước những lời lẩm bẩm của Tang phu nhân, đang định bày tỏ mình cần suy nghĩ lại, nếu muốn thành thân thì phải cưới một người thật tốt, nào ngờ đúng lúc này Thanh Thung phu nhân đã tới.
Thanh Thung phu nhân bưng khay đi vào, cười nói: “Hai người đúng là thân hơn cả mẹ con ruột, nói gì mà ngồi trong phòng lâu vậy, lẽ nào muốn nói hết chuyện năm năm qua à.”
Tang phu nhân cười nói: “Bọn ta đang nói cô đấy, nói sao cô lại âm thầm lấy thứ huynh.”
Thanh Thung phu nhân đặt khay xuống, ngồi xuống thở dài: “Cho ta đầu thai lại mười lần, ta cũng không ngờ sẽ cưới chồng như đại nhân.”
Tang phu nhân hí hửng hỏi: “Vậy cô muốn lấy người như thế nào.”
Thanh Thung phu nhân nói: “Như Nguyên Y a tỷ.”
Tang phu nhân cười phì, Thiếu Thương suýt té ngữa khỏi ghế.
“Không phải ta nói đùa, từ khi mười ba tuổi ta đã cảm thấy Nguyên Y a tỷ là người gan dạ có trách nhiệm nhất trên đời này!” Thanh Thung phu nhân cười khổ, “Ta mất cha mất mẹ thuở nhỏ, ở nhờ nhà họ hàng xa, cuộc sống chỉ nhỉnh hơn nô bộc vài phần. Năm ấy cữu mẫu và Nguyên Y a tỷ kèn cựa nhau, ép ta phải làm thiếp cho ngoại huynh. Ngoại huynh không thể chống cự, chỉ biết lấy ta ra hả giận, còn Nguyên Y a tỷ thương ta chăm sóc ta… Sau đó Tiêu gia gặp nạn, Nguyên Y a tỷ và ngoại huynh hủy hôn, ta mới đi theo Nguyên Y a tỷ.”
Vợ chồng hủy hôn, tiểu thiếp chạy theo vợ trước, quả là một câu chuyện lạ. Lúc đầu mẹ chồng trước của Tiêu phu nhân còn nói dông nói dài, chính Tiêu phu nhân uy hiếp để Thanh Thung phu nhân đi kiện bọn họ ép người hiền làm thiếp, thế là đám gan thỏ đế đó thụt đầu lại ngay.
“Ta vốn không định lập gia đình nữa, dù gì Trình gia cũng sẽ cho ta dưỡng lão.” Thanh Thung phu nhân rất thất vọng, “Nào ngờ trời xui đất khiến lại nên cảnh như ngày hôm nay.”
Hôn sự này đến rất cẩu huyết – hai năm trước, Trình Thừa từ núi Bạch Lộc về nhà đón Nguyên đán, khi đi ngang qua trang viên xa xôi Tiêu phu nhân mới mua, ông tiện thể đón Thanh Thung phu nhân đang kiểm tra sổ sách ở trang viên về cùng.
Kết quả là, không biết với Trình Thừa xui xẻo cả đời thì lần ấy là may hay họa, đoàn xe gặp phải tuyết lở, Thanh Thung phu nhân và Trình Thừa cùng lăn xuống vách núi, ba ngày ba đêm sau mới được người ta tìm về.
Để vượt qua thảm họa, hai người phải đỡ đần nhau ở dưới đáy vực, nên lúc đi ra ai ai cũng thấy bọn họ kề da thịt, quần áo xộc xệch. Trình Thủy mừng tới mức hớn hở ra mặt, nhanh chóng làm hết thủ tục hủy hôn cho Trình Thừa và Cát thị, sau đó vừa dỗ dành vừa hù dọa, mau chóng đưa em trai xui xẻo và Thanh Thung phu nhân vào động phòng, đại công cáo thành!
Tiêu phu nhân không muốn nghĩa muội cô độc suốt đời nên cũng ngầm cho phép.
Thanh Thung phu nhân coi lời của nghĩa tỷ như thần linh, nếu đã hứa với Tiêu phu nhân phải chăm sóc thật tốt cho Nhị đệ Trình Thừa đáng thương ‘khó khăn lắm mới khiến người ta yên lòng’, cho nên hai năm nay bà hết lòng hầu hạ Trình Thừa ở núi Bạch Lộc.
“Ngày trước không muốn cưới người như thứ huynh, còn giờ thì sao?” Tang phu nhân đùa
“… Cũng được.” Thanh Thung phu nhân lại thở dài, “Tử Dung quân cũng là người đáng thương.”
Thiếu Thương rất đồng ý với câu này, trong Trình gia không còn ai xui xẻo hơn Trình Thừa, sống hai mươi mấy năm bên cạnh mẹ ruột thiên vị cọc cằn, lại sống thêm mười mấy năm bên cạnh Cát thị nhỏ nhen độc ác, hơn nửa cuộc đời không biết đàn bà dịu dàng chu đáo là như thế nào, nên từ khi ông cưới Thanh Thung phu nhân biết quan tâm dịu dàng, kết quả thế nào có thể thấy rõ.
Ba người mới hàn huyên vài câu thì Trình Thừa im lặng đi đến, đứng ngoài cửa chần chừ không dám bước vào.
Thiếu Thương vui vẻ hô to: “Nhị thúc, sao thúc không vào!”
“Vào làm gì, cháu tưởng Nhị thúc cháu muốn gặp cháu hả.” Tang phu nhân phối hợp.
Cả hai chớp mắt nhìn Thanh Thung phu nhân, thấy áng đỏ phớt trên mặt bà, dịu dàng thấp giọng nói với người ngoài cửa: “Có chuyện gì, đợi về rồi nói.”
Trình Thừa xấu hổ: “Không, không có gì cả, ta chỉ tới thăm nàng, nếu không có chuyện gì thì về phòng thôi.”
Đây đúng là lời vô vị nhất Thiếu Thương từng nghe, còn chẳng thú vị bằng Ngũ hoàng tử chòng ghẹo cung nữ.
Thanh Thung phu nhân vừa giận vừa buồn cười, đi đến kiên nhẫn dặn dò, vừa nói vừa sửa lại vạt áo cho chồng: “Ta với Niệu Niệu còn phải đi gặp a tỷ, cũng phải một lúc nữa mới về. Mình về trước đi, đặt ấm nước lên lò, mài mực sẵn, đợi ta về rồi… Đừng đứng gần lửa quá, lần trước mình bị phỏng tay vẫn chưa lành mà.”
Trình Thừa đáp một tiếng, gương mặt vui vẻ sáng hẳn lên.
Ở trong phòng, Tang phu nhân lại gần Thiếu Thương, cười híp mắt nhìn nàng.
Thiếu Thương chẹp miệng, thở dài nói: “Cháu hiểu ý thẩm, cứ thành thân thật tốt, đừng suy nghĩ lung tung, phải không? Nhưng thẩm à, nếu sau này cháu thành thân mà ngày nào cũng đánh nhau thì làm sao!” Nàng cảm thấy khả năng này rất lớn.
Tang phu nhân nổi giận: “Vậy cứ đánh cho thắng rồi hủy hôn, nói tóm lại cháu cứ lấy chồng một lần cho ta đi đã!”