Loay hoay một hồi, nồi cháo sườn heo đã bốc lên khói thơm nghi ngút.
Sau khi chuyển sang chế độ giữ ấm, tôi múc một bát nhỏ đặt lên bàn, vừa ăn vừa ngẩn người nhìn ra ngoài vườn.
Nắng sớm mai nghiêng mình nhảy nhót trên khóm hồng sau ô cửa nhỏ, Sài Gòn cuối thu hiếm hoi được ngày nắng ráo, bởi vì hôm nay là thứ hai, mọi người đều bận đi học đi làm nên tôi dự định sẽ ôm giá vẽ ra Thảo Cầm Viên, ở đó đang lúc vắng vẻ, tôi có thể nằm dài cả ngày ở đó để ngắm mấy con thú dễ thương rồi vẽ vời bọn chúng.
Nhưng trước khi đi, tôi đến tủ thuốc lấy ra mấy gói thuốc đau dạ dày đặt bên nồi cháo, viết mấy dòng chữ lên giấy nhớ rồi dán lên tủ lạnh.
‘Không biết trưa anh có về không nhưng em nấu sẵn cháo rồi, dạ dày anh không tốt, đêm qua lại uống nhiều rượu, bụng rỗng không nên ăn cơm hay đồ dầu mỡ, mà anh cũng nhớ uống thuốc.’
Rồi sợ anh cậy mạnh bỏ qua, tôi xuống dòng viết tiếp một câu.
‘Tuy đau dạ dày không chết nhưng cũng không thể sống an ổn.”
Một mình em sống không an ổn là đủ rồi.
Tôi thở dài, học anh vẽ lên giấy bộ mặt ma quỷ như lúc anh trưng ra bắt nạt tôi rồi bất giác cười ngu ngốc.
Làm xong tất cả, tôi khoác thêm chiếc áo sơ mi màu xám rồi ôm dụng cụ vẽ ra cửa.
Bởi vì nhà anh ở khá xa khu dân cư nên tôi phải đi bộ một quãng dài mới đón được xe buýt, bác tài hiền lành không vì tôi đem nhiều đồ lặt vặt lên xe mà phiền hà, ngược lại còn cười chào tôi một cái.
Tôi luống cuống cúi người chào bác rồi tìm một chỗ khuất trong xe để ngồi xuống.
Liêp tiếp đổi ba tuyến xe buýt, lúc đến được Thảo Cầm Viên đã gần một tiếng đồng hồ.
Tôi men theo đường gạch đi vào cổng, loanh quanh một hồi nhìn bọn thú được cho ăn sáng, tôi ngơ ngác nhìn chúng mà chúng cũng ngơ ngác nhìn tôi, thật buồn cười biết bao.
Sau đó tôi ngồi xuống cạnh hồ nước, hồ nước nằm sâu tít trong công viên nên vắng người qua lại, trước mặt tôi là bầy thiên nga đang lội nước rỉa lông, xa hơn năm mươi bước là dì bán bánh mình ngồi bán ở góc tư đường.
Tôi chậm chạp bày biện mọi thứ vào đúng vị trí, và dự định sẽ đóng đô tại đây tới tận xế chiều.
Nắng hôm nay không quá gắt, gió hanh hao đuổi đám cỏ mơn man nghiêng ngả.
Tôi chăm chú nhìn hai con thiên nga tách đàn đang bơi tới bờ hồ, một đực một cái, đằng sau chúng còn có hai chú thiên nga con nhỏ bé.
Bỗng dưng tôi cảm thấy nhớ nhà, tôi cũng từng có một gia đình, có cha có mẹ, có anh hai.
Cha tôi là giám đốc bệnh viện Indochina, mẹ tôi là giảng viên thanh nhạc, anh hai tôi là thủ khoa đại học RMIT.
Vốn dĩ tốt đẹp như thế, nhưng bây giờ anh hai bặt vô âm tín, hình bóng cha mẹ chìm trong ký ức, thảng hoặc nhìn cha mẹ trên báo đài tivi, tôi mới có thể chân thực khắc sâu được dáng vẻ hiện giờ của hai người.
Từ nhỏ cha mẹ đã không thương tôi, ngoại trừ những lúc ăn cơm, tôi hầu như chỉ nhìn thấy bóng lưng của cha mẹ, họ như thể muốn tránh né tôi, lòng họ vẫn chưa thể đón nhận có thêm một đứa con khiếm khuyết như tôi.
Tôi không giận cha mẹ, chỉ luyến tiếc chưa từng được trò chuyện với họ câu nào.
Tôi luôn mường tượng cặn kẽ cách phát âm hai tiếng “cha,” “mẹ” trong đầu, nhưng những gì thốt ra chỉ có tiếng “ú ớ” vô nghĩa.
Tôi không thể giống anh hai mang tự hào đến hai người, chỉ có thể khiến họ rơi từ thất vọng đến tuyệt vọng vô bờ.
Giờ ấy à, có lẽ bọn họ hận tôi đến chết đi sống lại, tôi vẫn nhớ như in ánh