Khi con tàu tốc hành đi Perpignan đã khuất dạng sau rặng cây óng ánh bạc và những mái nhà trong làng, Barley nói, “Xong, hắn đang ở trên con tàu đó, còn bọn mình thì không.”
“Vâng,” tôi trả lời, “nhưng hắn biết chính xác chúng ta đang ở đâu.”
“Không lâu lắm đâu.” Barley đi về phía cửa sổ quầy bán vé - nơi một ông già dường như đang vừa đứng vừa gà gật - nhưng đã nhanh chóng quay trở lại, có vẻ cố không tỏ ra bức xúc. “Phải đến sáng mai mới có chuyến tàu kế tiếp đến Perpignan,” Barley thông báo lại. “Và cũng đến trưa mai mới có xe buýt đến một thị trấn lớn khác. Chỉ có một phòng cho thuê ở một nông trại cách làng này nửa cây số. Chúng ta có thể ngủ ở đó và quay trở lại đây để đón chuyến tàu sáng mai.”
Tôi chỉ còn nước hoặc nổi điên hoặc òa khóc thôi. “Anh Barley, em không thể chờ đến sáng mai mới đáp tàu đến Perpignan! Chúng ta đã mất quá nhiều thời gian.”
“Ôi, nhưng đâu còn cách nào khác,” Barley đáp lại, giọng cáu kỉnh. “Anh đã hỏi thăm đủ các thứ phương tiện từ taxi, xe hơi, xe tải của nông trại, xe lừa, và cả đi quá giang nữa - em muốn anh làm gì nữa nào?”
Chúng tôi im lặng cuốc bộ vào làng. Đó là buổi chiều muộn của một ngày ấm áp và yên tĩnh, và mọi người mà chúng tôi thấy nơi ngưỡng cửa hay trong các khu vườn đều có vẻ lờ đờ, tựa như họ đang bị bỏ bùa. Khu nông trại chúng tôi đến có một biển hiệu sơn bằng tay ở bên ngoài cùng với một chiếc bàn bày bánh trứng, pho mát và rượu nho. Một người phụ nữ bước ra - chùi hai tay lên tạp dề - và chẳng có vẻ gì ngạc nhiên khi trông thấy chúng tôi. Khi Barley giới thiệu tôi là em gái, bà ta chỉ cười vui vẻ, không hỏi han gì, dù chúng tôi chẳng hề có hành lý. Khi Barley hỏi có phòng cho hai người hay không, bà ta trả lời giọng lí nhí “Oui, oui,”(1) tựa như chỉ nói cho chính mình nghe. Trong sân trại nền đất cứng có lác đác vài khóm hoa, những chú gà đang bươi đất tìm mồi, một dãy thùng xô nhựa dưới mái hiên, những kho thóc và căn nhà bằng đá xúm xít quanh nhau vừa lộn xộn vừa thân tình. Chúng tôi có thể dùng bữa tối trong khu vườn sau nhà, bà chủ nông trại giải thích, và phòng chúng tôi nằm kế cận khu vườn, trong khu vực cổ xưa nhất của khu nhà.
Chúng tôi im lặng đi theo bà chủ nông trại qua căn nhà bếp thấp lè tè vào một chái nhà nhỏ, có lẽ từng là chỗ ngủ của người phụ bếp. Phòng ngủ có sẵn hai giường nhỏ, kê ở hai bức tường đối diện nhau, thật nhẹ nhõm khi nhìn thấy thế, một cái tủ gỗ đựng quần áo. Phòng vệ sinh ở cạnh cửa có bồn cầu và bồn tắm. Mọi thứ trông sạch sẽ không tì vết, rèm được hồ cứng, những bức tranh thêu cũ xưa trên một bức tường đã phai màu vì ánh nắng. Tôi vào phòng tắm và rửa mặt sơ qua bằng nước lạnh trong khi Barley trả tiền cho người phụ nữ.
Khi tôi ra khỏi phòng tắm, Barley rủ tôi đi dạo, có lẽ phải một giờ nữa bà chủ nông trại mới chuẩn bị xong bữa tối cho chúng tôi. Thoạt tiên, tôi không muốn rời khỏi sự che chở của khuôn viên nông trại, nhưng ở bên ngoài, con đường râm mát dưới những tán cây, chúng tôi bước đi bên cạnh những gì còn lại của thứ trước đây chắc hẳn từng là một ngôi nhà rất xinh đẹp. Barley leo qua hàng rào, tôi cũng leo theo. Gạch đá đổ ngổn ngang, dấu tích của những bức tường thành cũ, và một ngọn tháp đổ nát còn sót lại khiến chốn này có một vẻ huy hoàng của thời quá khứ. Vẫn có một ít cỏ khô trong nhà kho he hé cửa, dường như nó vẫn còn đang được sử dụng. Một xà nhà lớn rơi xuống giữa các ngăn chuồng.
Barley ngồi giữa đống đổ nát, nhìn tôi. “Này, anh biết em đang rất điên tiết,” anh châm chọc. “Em chẳng hề màng đến việc anh đã giúp em thoát khỏi mối nguy hiểm trước mắt, nhưng em chỉ nên như thế khi nó không biến thành sự phiền phức với em sau này thôi.”
Sự xấu tính của anh làm cho tôi thoáng cảm thấy như nghẹt thở. “Làm sao anh dám,” rốt cuộc tôi thốt lên và bỏ đi, len lỏi giữa đám đá. Tôi nghe tiếng Barley đứng dậy, bước theo.
“Không lẽ em muốn ở lại trên con tàu đó hay sao?” anh ta hỏi, giọng đã hòa hoãn hơn.
“Dĩ nhiên là không,” tôi trả lời, vẫn không quay mặt lại. “Nhưng cũng như em, anh biết là cha em có thể đã có mặt ở tu viện Thánh Matthieu.”
“Nhưng cái gã đó, là Dracula hay là bất kỳ ai, đã đến đó đâu.”
“Giờ thì hắn đã đi trước chúng ta một ngày rồi,” tôi phản pháo, nhìn sang bên kia cánh đồng. Ngôi nhà thờ làng nhô lên sau một hàng dương ở phía xa xa; tất cả như một bức tranh thôn dã yên bình, chỉ thiếu hình ảnh những chú bò, chú dê.
“Trước hết,” Barley lên giọng (và tôi ghét anh vì cái giọng ưa lên lớp này), “chúng ta không biết gã đàn ông kia là ai. Có thể hắn không phải là Dracula. Theo như các lá thư của cha em thì Dracula phải có đám tay sai chứ, đúng không nào?”
“Thậm chí còn tồi tệ hơn kia,” tôi trả lời. “Nếu gã đó chỉ là một tên tay sai của hắn, vậy thì có lẽ chính bản thân hắn đã có mặt ở tu viện Thánh Matthieu rồi.”
“Hoặc,” Barley tiếp lời, nhưng bỗng im bặt. Tôi biết anh định nói gì, “Hoặc có lẽ hắn đang ở đây, với chúng ta.”
“Chúng ta đã làm lộ địa điểm chính xác nơi chúng ta xuống tàu,” tôi nói tiếp, làm rõ ý anh luôn.
“Giờ thì ai đang xấu tính nào?” Barley đến sát phía sau và khá ngượng nghịu vòng một cánh tay quanh vai tôi, và tôi nhận ra, ít nhất thì anh cũng đang nói như là đã tin câu chuyện của cha tôi. Những giọt nước mắt cố nén lại trong mắt bấy giờ ứa ra và giàn giụa trên mặt tôi. “Thôi, nào,” Barley vỗ về. Tôi ngả đầu vào vai anh, áo anh âm ấm do ánh mặt trời và do cả mồ hôi. Một lúc sau, tôi ngoảnh đi, chúng tôi trở về dùng bữa tối trong im lặng, trong khu vườn trang trại.
“Helen không nói gì thêm trên đường trở về nhà trọ, cha đành bằng lòng với việc quan sát xem có dấu hiệu thù địch nào từ những người qua lại, thỉnh thoảng nhìn xung quanh và phía sau xem có bị ai theo dõi không. Khi về đến phòng, cha rơi trở lại tâm trạng chán nản do vẫn chưa có thông tin để biết phải tìm kiếm thầy Rossi như thế nào. Một hàng dài những tên sách, thậm chí một vài cuốn trong số đó dường như không còn nữa, liệu sẽ giúp ích được gì không?
“ ‘Đến phòng tôi đi,’ Helen thân mật nói khi bọn ta về đến nhà trọ. ‘Chúng ta cần nói chuyện riêng một chút.’ Vào một lúc khác, thái độ thiếu ý tứ này của cô hẳn sẽ làm cha cảm thấy thích thú, nhưng ngay lúc đó thì gương mặt cô có vẻ quyết liệt đến mức cha chỉ có thể tự hỏi cô đang nghĩ gì trong đầu. Dù sao chăng nữa, ngay lúc đó, vẻ mặt cô chẳng có lấy một chút gì làm cha thấy hấp dẫn. Trong phòng, giường gối thẳng thớm ngăn nắp, số vật dụng ít ỏi của cô hình như được xếp cất kín đáo không để ai thấy. Cô ngồi xuống chiếc ghế cạnh cửa sổ, khoát tay chỉ chiếc ghế dựa. ‘Nghe này,’ cô lên tiếng, tháo găng tay và cởi mũ, ‘Tôi đang suy nghĩ một chuyện. Có vẻ như chúng ta đã chạm đến một chướng ngại thực sự trong việc tìm kiếm ông Rossi.’
“Cha rầu rĩ gật đầu. ‘Đó chính là điều tôi băn khoăn từ nửa giờ qua. Nhưng có thể Turgut sẽ xoay xở kiếm được cho chúng ta vài thông tin từ những bạn bè ông ta.’
“Cô lắc đầu. ‘Chỉ là mò que đáy biển.’
“ ‘Kim,’ cha sửa lại, nhưng chẳng chút hào hứng.
“ ‘Mò kim,’ cô chỉnh lại. ‘Tôi nghĩ chúng ta đã bỏ qua một nguồn thông tin rất quan trọng.’
“Cha nhìn cô chăm chăm. ‘Nguồn nào vậy?’
“ ‘Mẹ tôi,’ cô trả lời rành rọt. ‘Khi còn ở Mỹ, anh đã có lý khi hỏi tôi về bà ấy. Tôi đã suy nghĩ về bà suốt ngày nay. Bà biết ông Rossi rất lâu trước anh, còn tôi thì chưa bao giờ thực sự hỏi han bà về ông ấy sau khi bà tiết lộ với tôi ông là cha tôi. Tôi không hiểu lý do sao lại không hỏi, chỉ biết rằng rõ ràng đối với bà đó là một chuyện đau lòng. Hơn nữa - cô thở dài - mẹ tôi chỉ là một người bình dị. Tôi không cho rằng bà có thể bổ sung thêm điều gì về công việc của ông Rossi vào những gì tôi đã biết. Năm ngoái, thậm chí khi bà tiết lộ với tôi ông ấy tin vào sự tiếp tục tồn tại của Dracula, tôi đã không thúc ép bà nhiều lắm - tôi biết bà vốn mê tín dị đoan như thế nào. Nhưng hiện tại tôi lại băn khoăn liệu bà có biết được điều gì khả dĩ giúp chúng ta tìm ra ông ấy.’
“Niềm hy vọng lại bùng dậy trong cha cùng với những lời Helen vừa nói. ‘Nhưng chúng ta nói chuyện với bà ấy bằng cách nào? Tôi nhớ cô đã nói bà không có điện thoại kia mà.’
“ ‘Phải, mẹ tôi không có điện thoại.’
“ ‘Vậy… thì làm thế nào?’
“Helen cầm chặt hai chiếc găng tay và vỗ mạnh chúng lên đầu gối. ‘Chúng ta sẽ phải đến gặp trực tiếp bà ấy. Mẹ tôi đang sống tại một thị trấn nhỏ bên ngoài Budapest.’
“ ‘Cái gì?’ bây giờ đến lượt cha nổi cáu. ‘Ồ, đơn giản quá nhỉ. Chúng ta chỉ cần nhảy lên tàu, với hộ chiếu Hungary của cô, còn tôi - chà, ngon lành nhỉ - chỉ có hộ chiếu Mỹ, rồi nhảy xuống để tán gẫu với một trong những người thân của cô về Dracula.’
“Điều ngạc nhiên là Helen lại mỉm cười. ‘Chả có lý do gì mà nổi máu lên như vậy, anh Paul ạ,’ cô nói. ‘Ở Hungary chúng tôi có câu tục ngữ là: “Nếu một việc là bất khả thi, việc đó nên được thực hiện.” ’
“Cha đành bật cười. ‘Thôi được,’ cha nói. ‘Vậy kế hoạch của cô thế nào? Tôi để ý là cô bao giờ cũng có kế hoạch cả.’
“ ‘Phải, tôi có một kế hoạch.’ Cô vuốt thẳng đôi bao tay. ‘Thực ra, tôi hy vọng bác tôi sẽ có kế hoạch.’
“ ‘Bác cô?’
“Helen liếc nhìn ra ngoài cửa sổ, về phía những căn nhà cổ trát vữa xtucô màu dịu ở bên kia đường. Trời đã xế chiều, và bên ngoài kia, ánh nắng vùng Địa Trung Hải mà cha giờ đã đem lòng yêu đang đậm dần thành một màu vàng óng ánh dát lên khắp các bề mặt của thành phố. ‘Bác tôi làm việc tại Bộ Nội vụ Hungary từ năm 1948, và là một nhân vật khá quan trọng. Tôi có được học bổng cũng nhờ bà ấy. Ở quê hương tôi, người ta chẳng làm được trò trống gì nếu không có họ hàng quen biết. Bác ấy là chị của mẹ tôi, hai vợ chồng bác đã giúp mẹ tôi thoát khỏi Rumani đến Hungary, nơi bác sống, ngay trước khi tôi ra đời. Tôi và bác ấy rất thân thiết với nhau, bác sẵn sàng làm tất cả những gì tôi yêu cầu. Không giống như mẹ, nhà bác có điện thoại, tôi sẽ gọi cho bác ấy.’
“ ‘Ý cô muốn nói là bằng cách nào đó bác ấy sẽ đưa mẹ cô đến bên máy điện thoại để mẹ cô nói chuyện với chúng ta?’
“Helen rên lên. ‘Ôi, lạy Chúa, anh nghĩ chúng ta có thể nói qua điện thoại bất kỳ chuyện riêng tư hay còn đang tranh cãi nào hay sao?’
“ ‘Tôi xin lỗi,’ cha nói.
“ ‘Không, đích thân chúng ta sẽ đến đó. Bác tôi sẽ thu xếp chuyện này. Bằng cách như vậy chúng ta có thể trực tiếp nói chuyện với mẹ tôi. Vả lại’ - giọng cô chợt dịu hẳn đi - ‘họ sẽ rất vui khi gặp tôi. Dù nơi ấy không cách xa đây lắm nhưng đã hai năm rồi tôi chưa gặp họ.’
“ ‘Cũng được,’ cha nói, ‘tôi sẵn lòng làm tất cả vì thầy Rossi, mặc dù tôi thấy khó hình dung được mình lại đang nhẹ lướt vào cái xứ Hungary cộng sản đó.’
“ ‘À,’ Helen tiếp lời, ‘vậy thì anh sẽ còn thấy khó khăn hơn khi hình dung cảnh, như anh nói, nhẹ lướt vào xứ sở cộng sản Rumani, nhỉ?’
“ Lần này cha im lặng một lúc lâu. Sau cùng cha nói. ‘Tôi
biết, tôi cũng đang nghĩ về điều đó. Nếu mộ của Dracula rốt cuộc không ở Istanbul thì còn có thể nằm ở đâu?’
“Cha và Helen ngồi yên cả phút, miên man suy nghĩ, có vẻ xa cách nhau đến không thể tin nổi, rồi Helen lên tiếng. ‘Tôi sẽ xuống dưới nhà để xem liệu bà chủ nhà có cho chúng ta mượn điện thoại để gọi đi hay không,’ cô nói. ‘Bác tôi cũng sắp về nhà rồi, tôi cũng muốn nói chuyện với bác ấy ngay.’
“ ‘Tôi có thể đi cùng với cô chứ?’ cha hỏi. ‘Xét cho cùng, việc này cũng liên quan đến tôi.’
“ ‘Dĩ nhiên rồi,’ Helen mang găng tay vào và cùng cha đi xuống phòng khách riêng của bà chủ nhà để gặng hỏi bà. Chúng ta mất tới mười phút để giải thích ý định của mình, nhưng một ít tiền lia Thổ Nhĩ Kỳ và lời hứa sẽ thanh toán đầy đủ tiền cuộc gọi mới là những thứ làm mọi việc êm xuôi. Helen ngồi trên ghế dựa và bấm một loạt con số. Sau cùng, cha thấy mặt cô sáng lên. ‘Chuông đang reo.’ Cô nhìn cha mỉm cười, nụ cười bộc trực và dễ thương. ‘Chắc bà bác của tôi sẽ không thích chuyện này đâu,’ cô nói. Bỗng gương mặt cô thay đổi, trở thành lanh lợi vui vẻ. ‘Bác Éva phải không?’ cô thốt lên. ‘Cháu, Elena đây!’
“Lắng nghe kỹ, cha nhận ra hẳn cô phải đang nói tiếng Hungary; ít ra cha biết tiếng Rumani là một thứ tiếng thuộc dòng Rôman, nên cha còn có thể hiểu được đôi ba từ. Nhưng thứ tiếng mà Helen đang nói giống như tiếng vó ngựa phi nước đại, một sự pha tạp hỗn loạn âm điệu Phần Lan-Hung mà cha không thể nào nhận ra, dù chỉ một âm. Cha băn khoăn không biết liệu cô có bao giờ nói tiếng Rumani với gia đình mình, hoặc có lẽ phần đời đó của họ đã vĩnh viễn biến mất từ lâu, dưới áp lực hội nhập vào xã hội mới. Giọng cô cao lên rồi trầm xuống, đôi khi ngắt quãng vì một tiếng cười hoặc một cái nhíu mày. Bà bác Éva ở bên kia đầu dây hình như cũng có khối chuyện để nói, đôi lần Helen lắng nghe rất kỹ, rồi lại bật lên trả lời bằng những âm tiết kỳ lạ như tiếng vó ngựa.
“Helen dường như quên bẵng sự có mặt của cha, nhưng đột nhiên cô lại giương mắt nhìn cha, hé cười cùng một cái gật đầu đắc thắng, tựa như kết quả cuộc nói chuyện của cô là rất triển vọng. Cô cười vào ống nghe rồi gác máy. Ngay lập tức, bà chủ nhà nhào đến, dường như quá sốt ruột cho cái hóa đơn điện thoại sắp đến của mình, và cha nhanh chóng thỏa thuận tổng số tiền phải trả, cộng thêm một ít nữa, và đặt tiền vào bàn tay đang xòe rộng của bà ta. Helen đang trên đường quay trở về phòng, vẫy tay ra hiệu cha đi theo; cha nghĩ thái độ bí mật ấy là không cần thiết, nhưng xét cho cùng, cha đã biết được gì nào?
“ ‘Nào Helen, nói đi chứ,’ cha rền rĩ khi ngồi trở lại vào chiếc ghế bành. ‘Tôi hồi hộp muốn chết đây này.’
“ ‘Tin tức tốt lành,’ cô bình thản đáp lại. ‘Tôi biết, rồi cuối cùng bác tôi sẽ cố giúp thôi.’
“ ‘Cô nói với bà ta chuyện quái quỷ gì vậy?’
“Cô nở một nụ cười tươi. ‘Chà, làm sao mà nói được gì nhiều trên điện thoại, và tôi còn phải nói chuyện kiểu khách sáo nữa. Nhưng tôi đã nói với bác ấy là tôi đang ở Istanbul vì một công trình nghiên cứu, cùng với đồng nghiệp, và chúng ta cần đến Budapest khoảng năm ngày để tìm kết luận cho công trình nghiên cứu đó. Tôi đã nói rõ anh là một giáo sư người Mỹ và chúng ta đang viết chung một bài báo chuyên ngành.’
“ ‘Về chủ đề gì?’ cha hỏi, giọng e dè.
“ ‘Về những mối quan hệ lao động ở châu Âu thời chiếm đóng của đế chế Ottoman.’
“ ‘Không tệ lắm. Nhưng tôi đâu biết gì về đề tài đó.’
“ ‘Sẽ ổn thôi.’ Helen phủi mấy sợi chỉ xơ ra chỗ gấu chiếc váy đen thanh nhã của cô. ‘Tôi sẽ nói sơ qua đề tài đó với anh.’
“ ‘Cô giống hệt cha cô.’ Tri thức uyên bác tự nhiên của cô khiến cha chợt nhớ đến thầy Rossi, câu nhận xét trên đã vọt ra khỏi miệng trước khi cha kịp suy nghĩ. Cha liếc vội về phía cô, e rằng mình đã nói hớ hênh làm cô khó chịu. Cha cũng chợt nhận ra đây là lần đầu tiên mình nghĩ cô là con gái của thầy Rossi một cách hoàn toàn tự nhiên, tựa như cha đã chấp nhận cái ý tưởng này vào một thời điểm nào đó mà thậm chí cha cũng không để ý.
“Cha ngạc nhiên khi trông thấy Helen có vẻ buồn. ‘Đó là một luận cứ vững chắc để chứng minh yếu tố di truyền áp đảo yếu tố môi trường,’ cô chỉ nói có vậy. ‘Dù sao đi nữa, bác Éva có vẻ như bực mình, nhất là khi tôi nói anh là người Mỹ. Tôi biết bác ấy phải thế thôi, bởi bác luôn nghĩ tôi là người bốc đồng và liều lĩnh. Lẽ dĩ nhiên, tôi là vậy. Và cũng tất nhiên, trước tiên bác cũng phải tỏ ra khó chịu như vậy trên điện thoại cho đúng kiểu.’
“ ‘Cho đúng kiểu à?’
“ ‘Bác ấy phải nghĩ đến công việc và vị thế của mình nữa chứ. Nhưng bác nói sẽ thu xếp cho chúng ta, tôi định sẽ gọi lại cho bác vào tối mai. Mọi việc là vậy. Bác tôi rất khéo léo, vì vậy tôi chắc chắn bà ấy sẽ tìm ra cách. Khi có tin tức chắc chắn, chúng ta sẽ mua vé khứ hồi từ Istanbul đến Budapest, có lẽ nên đi bằng máy bay.’
“Cha chỉ biết thầm thở dài, nghĩ đến khoản tiền có thể phải trả và tự hỏi không biết món tiền của cha còn cầm cự được bao lâu nữa với cuộc săn đuổi này, nhưng cha chỉ nói, ‘Tôi thấy có vẻ như bà ấy phải là người có phép lạ mới đưa được tôi vào Hungary và giữ cho chúng ta tránh khỏi rắc rối trong suốt chuyến đi đó.’
“Helen bật cười. ‘Bà ấy là một người có phép lạ. Đó là lý do vì sao tôi không phải ở nhà làm việc trong cái trung tâm văn hóa ở làng mẹ tôi.’
“Cô và cha lại xuống lầu và thả bộ ra phố, như thể đã ngầm đồng ý với nhau trước. ‘Ngay bây giờ thì chả có việc gì phải làm,’ cha trầm ngâm. ‘Phải chờ đến ngày mai mới có kết quả từ ông Turgut và bác cô. Tôi phải nói là luôn cảm thấy khó khăn khi chờ đợi những chuyện như thế này. Trong khi chờ đợi thì chúng ta sẽ làm gì đây?’
“Helen đứng giữa ánh nắng vàng đang sậm màu dần trên phố, suy nghĩ khoảng một phút. Cô đã mang găng tay và đội mũ chỉnh tề trở lại, nhưng ánh mặt trời cuối chiều vẫn làm ánh lên một thoáng màu đỏ trên mái tóc đen tuyền của cô. ‘Tôi muốn nhìn ngắm thành phố thêm nữa,’ rốt cuộc cô cũng lên tiếng. ‘Xét cho cùng, có thể tôi sẽ chẳng bao giờ trở lại chốn này nữa. Liệu chúng ta có nên quay lại thánh đường Hagia Sophia không nhỉ? Chúng ta có thể dạo quanh đó một chút trước bữa tối.’
“ ‘Ừ, tôi cũng thích vậy.’ Cô và cha không nói gì thêm suốt trên đường đến ngôi thánh đường tuyệt mỹ kia, nhưng khi đến gần và lại nhìn thấy những mái vòm, cùng những ngọn tháp chiếm lĩnh toàn bộ cảnh quan đường phố, cha cảm thấy sự im lặng giữa chúng ta còn trở nên sâu sắc hơn, như thể cha và cô càng lúc càng đi sát nhau hơn. Cha băn khoăn tự hỏi liệu Helen có cảm nhận như vậy không, hoặc liệu có phải sức thu hút của ngôi thánh đường đồ sộ kia đã tác động tới thân phận bé nhỏ của chúng ta. Cha vẫn cân nhắc những gì Turgut nói ngày hôm qua - niềm tin của ông ta về việc bằng cách nào đó Dracula đã truyền lại cái tai họa ma cà rồng hút máu trong thành phố lớn này. ‘Helen,’ cha lên tiếng, dù chẳng muốn phá vỡ sự yên tĩnh giữa chúng ta chút nào. ‘Cô không nghĩ hắn được chôn cất tại đây chứ - ở ngay chính Istanbul này? Điều đó giải thích việc Quốc vương Mehmed vẫn lo ngại về hắn dù hắn đã chết? Đúng không?’
“ ‘Hắn? À, vâng.’ Cô gật đầu tựa như đồng ý với việc cha không nhắc đến cái tên đó trên đường phố. ‘Đó là một ý kiến thú vị, nhưng không lẽ Mehmed không biết chuyện này và không lẽ Turgut cũng không tìm ra chứng cứ nào về chuyện đó. Tôi không thể tin người ta có thể che giấu một chuyện như vậy cả nhiều thế kỷ.’
“ ‘Cũng thật khó tin là Mehmed đã cho phép an táng kẻ thù của mình tại Istanbul, nếu ông ta biết được chuyện này.’
“Cô có vẻ như vẫn đang nghiền ngẫm vấn đề. Chúng ta gần như đã đến cổng chính dẫn vào thánh đường Hagia Sophia.
“ ‘Helen,’ cha gọi, giọng dịu dàng.
“ ‘Vâng?’ Cha và Helen dừng lại giữa mọi người, giữa đám khách du lịch và người hành hương chen lấn nhau qua cánh cổng đồ sộ. Cha tiến sát gần lại cô để có thể nói nhỏ, gần như thì thầm vào tai cô.
“ ‘Nếu có khả năng ngôi mộ đó ở nơi này thì có nghĩa là thầy Rossi cũng ở đây.’
“Cô quay lại nhìn vào mặt cha. Đôi mắt rực sáng, vài nếp nhăn của năm tháng và âu lo giữa hai hàng lông mày. ‘Dĩ nhiên là vậy, Paul ạ.’
“ ‘Tôi đọc trong sách hướng dẫn thì Istanbul cũng có những phế tích ngầm như La Mã - đại loại như các hầm mộ, bể chứa… Chúng ta còn ít nhất là một ngày trước khi rời khỏi nơi đây - có lẽ chúng ta nên nói với Turgut điều này.’
“ ‘Đó không phải là một ý kiến tồi,’ Helen ôn tồn tiếp lời. ‘Cung điện của các hoàng đế thuộc đế quốc Byzantine hẳn phải có những khu vực ngầm.’ Cô cơ hồ mỉm cười, nhưng lại đưa tay lên sờ vào chiếc khăn quàng cổ, tựa như ở đó có gì đó làm cô cảm thấy khó chịu. ‘Trong bất kỳ trường hợp nào, những gì còn lại của các cung điện đó chắc hẳn đầy những linh hồn tội lỗi - các hoàng đế từng chọc mù mắt thân thích của họ, đại loại như thế. Đúng là đám tay sai tuyệt hảo cho Dracula.’
“Bởi vì cả cha và cô, người này có thể đọc rõ ràng các suy nghĩ qua nét mặt người kia, đang cùng nhau tập trung suy ngẫm về cuộc săn lùng kỳ lạ và vĩ đại mà những suy nghĩ ấy có thể dẫn đắt đến, nên thoạt tiên cha không để ý thấy có người đang chăm chú theo dõi cha. Hơn nữa, hắn không phải là bóng ma cao lớn, đầy đe dọa, mà chỉ là một gã khá nhỏ con, gầy ốm, bình thường giữa chốn đông người qua lại, lảng vảng cách bức tường thánh đường chưa đến chục mét.
“Sau đó, trong cơn choáng váng ập đến ngay tức khắc, cha nhận ra đó là vị học giả nhỏ bé với bộ râu xám bờm xờm, mũ lưỡi trai trắng, quần áo một màu nâu buồn tẻ - người đã vào trung tâm lưu trữ tư liệu sáng hôm đó. Vào giây kế tiếp, cha còn thấy choáng váng hơn. Gã đó đã phạm sai lầm khi nhìn cha chằm chằm một cách lộ liễu, đến độ cha bất chợt nhận ra và trông thấy gã lủi vào đám đông. Sau đó gã biến mất, tan biến như một bóng ma giữa đám du khách ồn ào vui vẻ. Cha lao đến, gần như suýt va vào Helen, nhưng chỉ hoài công vô ích. Gã đàn ông đã bốc hơi; hắn biết đã bị cha phát hiện. Gương mặt hắn, giữa hàm râu quái đản và chiếc mũ lưỡi trai mới, rõ ràng không thể chối cãi là một khuôn mặt cha đã từng gặp tại trường đại học ở quê nhà. Lần sau cùng cha nhìn thấy gương mặt đó là ngay trước khi nó được phủ lại bởi một tấm vải trắng. Đó là gương mặt của gã thủ thư đã chết.”
Chú thích:
1. Nguyên văn tiếng Pháp: “Vâng, có.”