#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết
ĐÊM THỨ HAI MƯƠI LĂM: HIẾU THÁNH HIẾN HOÀNG HẬU NỮU HỖ LỘC THỊ
Nữu Hỗ Lộc Thị (Niuhuru Hala) là một trong tám dòng họ quý tộc Mãn Châu, đồng thời cũng là dòng họ cổ xưa nhất tộc Mãn, sống chủ yếu ở lưu vực sông Tùng Hoa, sông Mẫu Đơn và núi Trường Bạch. Khi nhắc đến cái tên này, chắc chắn rằng rất nhiều mọt phim Thanh đấu hẳn đều rất quen thuộc, ví như đại tham quan Hoà Thân cũng là họ Nữu Hỗ Lộc, rất nhiều hoàng hậu đời Thanh cũng họ Nữu Hỗ Lộc. Vì vậy họ này được xếp vào hàng "bát đại gia", là một danh môn chính hiệu!
Chúng ta thường nghe nói mẹ của vua Càn Long có họ là Nữu Hỗ Lộc, nhiều người vừa nghe liền khẳng định rằng bà xuất thân danh môn. Thực ra nhận định này cũng đúng nhưng không hẳn. Chúng ta nói Nữu Hỗ Lộc là một trong "bát đại gia" là ý chỉ thế hệ sau của công thần khai quốc Ngạch Diệc Đô, song mẹ của Càn Long chỉ là họ hàng xa, xa tới mức dù bắn đại bác cũng không tới. Nhà Nữu Hỗ Lộc có rất nhiều nhân vật nổi bật, ngoại trừ Hòa Thân thì còn có cả đại trọng thần Ngạch Diệc Đô, Át Tất Long,...Bên cạnh đó, kể từ thời Hoàng Thái Cực đến tận đời vua Hàm Phong, trải qua sáu triều vua tất cả, dòng tộc này đã có công "góp" mười hai vị phi tần, quyền lực đến mức người có tước vị thấp nhất cũng chỉ dừng lại ở mức phi. Hôm nay, chúng ta tìm hiểu về một vị hoàng hậu nức tiếng một thời, từng xuất hiện với hình tượng đầy mạnh mẽ trên sóng truyền hình, lấy đi nước mắt và sự tán thưởng của biết bao người - Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị - tức Sùng Khánh Hoàng thái hậu.
Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu sinh ngày 5 tháng 11 năm 1692 thuộc Mãn Châu Tương Hoàng Kỳ, phụ thân là Lăng Trụ, ông là quan điển nghi hàm tứ phẩm, được gia phong làm nhất đẳng thừa ân công, song phải đến đời Càn Long ông mới được gia phong. Chúng ta phân tích một chút về chức quan này - điển nghi hàm tứ phẩm, thoạt nghe thì thấy to tát nhưng thực ra đây chỉ là một chức quan mà khi hoàng thất cử hành lễ gì đó thì đứng hô "khẩu hiệu" mà thôi, là một kiểu quan khá nhàn, được phong cho người nhà của các phi tử. Điều này chứng tỏ, chức quan này cũng không phải do Lăng Trụ tự mình có được mà là nhờ con gái nên mới có.
Cuộc đời của vị hoàng hậu nức tiếng trong lịch sử Trung Hoa được tóm tắt như sau (có một số phần An dịch lại dựa theo Baike Trung, nhưng vì thông tin ở Wiki Việt cũng được dịch từ Baike nên độ giống nhau về mặt nội dung là 100%, song An chỉ tóm lược, nếu muốn đọc cụ thể hơn, các bạn có thể qua Wiki để tìm hiểu với từ khóa là Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu): Năm Khang Hy thứ bốn mươi ba (1704), Nữu Hỗ Lộc thị (13 tuổi) được chỉ hôn cho Tứ A Ca Dận Chân lúc này đã 26 tuổi. Tuy bà thuộc gia tộc danh giá nhưng gia đình bà cũng chỉ là họ hàng xa, cả chức quan của phụ thân Lăng Trụ cũng không cao, cộng thêm tước vị của Dận Chân lúc ấy chỉ dừng ở mức Bối Lặc nên khi nhập Ung bối lặc phủ, thân phận của bà cũng chỉ dừng ở mức Cách Cách, dù hạ sinh Hoằng Lịch nhưng địa vị của bà vẫn không hề tăng, mười năm ròng vẫn chỉ ở phong hào Cách Cách. Dừng! Mọi người dừng ở đây, theo sách sử thì bà cưới Ung Chính lúc 13 tuổi, đến hai mươi tuổi thì sinh ra Càn Long, ở giữa còn cách tận bảy năm nhưng không một sách sử nào ghi chép lại, vậy trong bảy năm ấy có gì, đây vẫn là một câu đố, song có một điều chắc chắn là sau khi sinh Càn Long (lúc ấy bà gần 20), mãi đến khi Khang Hy triệu kiến thì bà tròn 30 tuổi, suốt 12 năm đó bà cũng không hoài thai thêm lần nào nữa, có thông tin là Ung Thân Vương khá lãnh cảm với bà trong chuyện phòng the, chỉ vì bà sinh Hoằng Lịch nên Ung Chính mới để tâm đến bà. Song điều cần nói đến là cái phong hào Cách Cách này, thực ra trong tiếng Mãn, hai chữ Cách Cách cũng kiểu như "tỷ tỷ (chị gái) vậy, cũng không phải dùng để chuyên chỉ công chúa các kiểu. Đời Thanh có một cuốn từ điển Mãn văn rất uy tín được đích thân triều đình khâm định tên là "Thanh văn giám", trong đó có giải thích hai chữ "cách cách" này có nghĩa là tỷ tỷ. Thực ra thì An chỉ giải thích thêm cho vui thế thôi chứ cũng không có ý gì, chúng ta tiếp tục.
Hồi thời Khang Hy, Ung Chính tức Tứ A Ca Dận Chân mắc bệnh dịch nặng suýt chết. Nữu Hỗ Lộc thị ân cần chăm sóc chu đáo. Sau khi Ung Chính bình phục, vì cảm động trước sự săn sóc ấy nên đã yêu quý bà hơn. Lúc Hoằng Lịch 10 tuổi thì được theo cha đến Mẫu Đơn Đài ở Viên Minh Viên tham dự yến tiệc, Khang Hy thấy hoàng tôn Hoằng Lịch thông minh hơn người nên rất yêu mến bèn đón vào cung học tập, tự tay nuôi nấng, lại khen Nữu Hỗ Lộc thị có phúc, từ đó bà càng nhận Ung Chính ân sủng hơn. Wiki thì cũng ghi tương tự thế nhưng sau khi mình tìm hiểu thì theo như ghi chép trong "Thanh Cao Tông thực lục", khi Khang Hy nhìn thấy Càn Long thì rất yêu mến bèn muốn nhìn mặt mẹ đẻ của Càn Long, khi Nữu Hỗ Lộc thị quỳ gối trước mặt Khang Hy, Khang Hy đã cảm thán rằng: "Quả là người có phúc, người có phúc!", kể từ đó địa vị của bà và con trai có sự thay đổi tốt đẹp. Sau khi Ung Chính đăng cơ đã phong cho bà làm Hi phi, sau đó phong tiếp lên Hi quý phi. Tháng tám năm 1723, Ung Chính bí mật lập hoàng trữ (người sẽ lên nối ngôi vua), ông đã đề tên Hoằng Lịch lên di chiếu sau đó đặt sau tấm biển Chính Đại Quang Minh ở cung Càn Thanh. Thực ra thì trong chuyện tình cảm, nhất là gia đình đế vương, chuyện yêu hay không yêu rất mơ hồ, chỉ người trong cuộc mới biết rõ, song có một điều chắc chắn rằng, bất kể Ung Chính có yêu Nữu Hỗ Lộc Thị hay không thì ông quả thật rất trân trọng và yêu thương cậu con trai Hoằng Lịch của mình. Tứ hoàng tử được mẹ thương yêu, lại có cha và ông nội quyền khuynh thiên hạ hết mực chở che, thêm cả thông minh sáng sủa, đặc biệt là con đường lên ngôi cửu ngũ đã được trải sẵn, quả là quá phúc khí!
Năm 25 tuổi, Hoằng Lịch kế vị ngôi vua, lấy hiệu là Càn Long, sau đó phong Hi quý phi làm hoàng thái hậu, hết sức cung kính và tôn trọng bà. Trong khoảng thời gian Càn Long tại vị,