#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_dịch_và_viết
#Diên_Hi_Công_Lược
#Team_Nhàn_phi #Team_Hoàng_hậu #Team_Phó_Hằng
ĐÊM THỨ HAI MƯƠI TÁM:
KẾ HOÀNG HẬU Ô LẠP NA LẠP THỊ - THƯƠNG THAY MỘT KIẾP HỒNG NHAN
(Hơi bị dài đó các bạn, nếu bạn nào không kiên nhẫn thì lướt xuống đọc đoạn về cái chết của bà thôi, nhưng mình khuyên là các bạn nên đọc hết bởi những thông tin ở đây có rất nhiều cái trên Wiki không có ghi, mình lục rất nhiều các trang thông tin từ bên Trung rồi chọn lọc để dịch lại đó)
Trong bộ phim Hoàn Châu Cách Cách có một nhân vật phản diện kinh điển, bà ác độc, kiêu ngạo, vua Càn Long rất ghét bà, các cách cách và a ca cũng xa lánh bà, thế nên mới sa vào bước đường xuất gia. Trong một bộ phim khác cũng đang hot dạo gần đây - Diên Hi Công Lược, một lần nữa, hình tượng của người phụ nữ này lại được tái hiện với một góc nhìn khác và một cách diễn đạt khác. Bà chính là hoàng hậu thứ hai của vua Càn Long - Kế hoàng hậu Ô Lạp Na Lạp thị.
Song trên thực tế, Ô Lạp Na Lạp thị không ác độc như trong phim truyền hình, thậm chí có thể nói là một người phụ nữ dịu dàng hiền lương. Sử nhà Thanh ghi chép lại rằng, hoàng hậu "tính sinh uyển thuận" (tính tình dịu dàng nhu mì), "phú tính an hòa" (bản tính hòa nhã), "trì cung thục thận" (khiêm tốn cẩn trọng), nhưng kết cục của bà thậm chí còn thảm hơn cả trên phim, nói trắng ra là "chết không có chỗ chôn".
Ô Lạp Na Lạp thị sinh vào năm Khang Hy thứ năm mươi bảy (1718), thuộc Mãn Châu Tương Lam Kỳ, gia thế lâu đời và hiển hách, bà nhỏ hơn Càn Long 7 tuổi. Sẵn nói thì chúng ta lược sơ qua một chút về dòng họ của bà, thực ra họ đúng của bà phải là Huy Phát Na Lạp thị, tài liệu lịch sử Thanh Sử Cảo đã ghi nhầm thông tin này. Na Lạp thị là một dòng họ đã tồn tại từ rất lâu trên đất Trung Hoa, thuộc tộc Nữ Chân, gồm bốn chi lớn là Diệp Hách, Ô Lạp, Cáp Đạt và Huy Phát. Vốn ở Hắc Long Giang cũng có một chi nữa là Ích Khắc Đắc Lý thị, song sau này đã đổi lại là Na Lạp thị, rồi hậu duệ của chi này lại di cư đến Huy Phát, tự thành lập quốc gia tên Huy Phát nên mới dần có tên đầy đủ là Huy Phát Na Lạp thị. Thê nên đáng lý ra Kế hậu phải được gọi là Huy Phát Na Lạp thị mới đúng, thông tin cụ thể các bạn có thể tìm đọc trên Wikipedia.
Cuộc đời của Kế hoàng hậu có thể tóm gọn như sau:
Năm Khang Hy thứ năm mươi bảy (1718), Na Lạp thị được sinh ra.
Năm Ung Chính thứ mười hai (1734), trở thành trắc phúc tấn của Bảo Thân vương Hoằng Lịch, lúc này Càn Long đã có tổng cộng ba vị phúc tấn gồm đích phúc tấn Phú Sát thị và hai vị trắc phúc tấn lần lượt là Cao Giai thị (Tuệ Hiền Hoàng quý phi), Phú Sát thị (Triết Mẫn Hoàng quý phi, bà mất trước khi Càn Long đăng cơ).
Năm Càn Long thứ hai (1737), sắc phong làm Nhàn phi.
Năm Càn Long thứ mười (1745), tấn phong Nhàn Qúy phi.
Năm Càn Long thứ mười ba (1748), tấn phong Nhiếp lục cung sự Hoàng quý phi (tức Hoàng quý phi quản lý chuyện hậu cung)
Năm Càn Long thứ mười lăm (1750), sắc lập làm hoàng hậu.
Năm Càn Long thứ mười bảy (1752), sinh hạ hoàng tử thứ mười hai - Vĩnh Cơ.
Năm Càn Long thứ mười tám (1753), sinh hạ công chúa thứ năm nhưng mất lúc mới lên 2.
Năm Càn Long thứ hai mươi (1756), sinh hạ hoàng tử thứ mười ba - Vĩnh Cảnh, song cũng chết yểu vào năm năm.
Năm Càn Long thứ ba mươi mốt (1766), tạ thế, an táng theo nghi thức của Hoàng quý phi.
Cuộc đời của người phụ nữ lẫy lừng một thời, khi tóm gọn lại, cũng chỉ có thế mà thôi...
Sau khi Càn Long đăng cơ đã ngay lập tức sắc phong đích phúc tấn lên ngôi Hoàng hậu không chút chần chừ, rồi mới phong Qúy phi cho Cao Giai thị và phong Nhàn phi cho Ô Lạp Na Lạp thị, còn trắc phúc tấn Phú Sát thị do mất sớm nên không được tấn phong. Trong đó, Càn Long kính trọng nhất là Hoàng hậu Phú Sát thị, sủng ái nhất là Qúy phi Cao Giai thị, còn Ô Lạp Na Lạp thị thì rất mờ nhạt, hầu như không được sủng ái, thậm chí dù nhập cung sau nhưng địa vị của Thuần phi, Gia tần trong lòng Càn Long còn cao hơn cả Ô Lạp Na Lạp thị. Từ việc Thuần phi liên tiếp sinh hạ Hoàng lục tử và Hoàng tam tử, còn Gia Tần liên tiếp sinh hạ Hoàng tứ tử và Hoàng bát tử có thể thấy được điều này. Vì vậy mới nói, sức nặng của Ô Lạp Na Lạp thị trong lòng Càn Long rất thấp, còn tình cảm có đậm sâu hay không thì càng không cần phải nhắc đến.
Sống trong hoàng cung rộng lớn, không ân sủng, không có con cái, những tháng ngày ấy đau khổ thế nào ắt các bạn cũng có thể mường tượng được. Điều duy nhất có thể an ủi được người phụ nữ này là bà rất hợp ý Thái hậu, hoặc có lẽ nên nói rằng nhờ hảo cảm của Thái hậu với bà nên bà mới được phong hào Nhàn phi. Năm Càn Long thứ mười, Nhàn phi Ô Lạp Na Lạp thị và Thuần phi Tô thị cùng được tấn thăng lên hào quý phi.
Năm Càn Long thứ mười bốn, hoàng hậu Phú Sát thị về cõi tiên. Tháng Bảy cùng năm, bởi Ô Lạp Na Lạp thị tính tình dịu dàng nên rất được Thái hậu yêu thích, Càn Long xuôi theo ý chỉ của Thái hậu, tấn phong bà làm Hoàng quý phi, tạm thay thế Hoàng hậu quản lý hậu cung. Nhưng đối với lần tấn phong này, Càn Long có vẻ khá không tình nguyện, dường như muốn tuyên cáo thiên hạ sự bất mãn này của mình nên sau khi sắc phong không lâu đã viết một câu thơ: "Lục cung tòng thử thiêm tân khánh, phiên nhạ vô đoan ý võng nhiên" (từ nay về sau lục cung thêm vui mới, bỗng ngẩn ngơ). Song bình tĩnh mà suy xét thì Càn Long không hẳn có ác cảm với Hoàng hậu Na Lạp thị, mà suy cho cùng ngài không muốn bất kỳ vị phi tần nào thay thế vị trí của Hoàng hậu Hiếu Hiền Thuần Phú Sát, càng không cần phải bàn đến việc thay thế vị trí của Hoàng hậu trong lòng ngài.
Năm Càn Long thứ mười lăm, dưới sự đốc thúc của Thái hậu, Càn Long sắc phong Ô Lạp Na Lạp thị làm hoàng hậu. Năm ấy, bà đã 33 tuổi, xuân sắc đã phai. Khi tấn phong, Càn Long cũng không nhìn bà lâu, vẫn thờ ơ như trước. Có lẽ ông trời cũng cảm thấy không đành lòng trước sự bi ai của bà, nên vào năm Càn Long thứ mười sáu (đây cũng là năm giỗ ba năm ngày mất của Hoàng hậu Phú Sát thị), thương nhớ người vợ đã khuất, ngài bỗng cảm thấy áy náy với Ô Lạp Na Lạp thị. Lúc này đây Càn Long mới chú ý đến sự tồn tại của Kế Hoàng hậu, vì thế, một năm sau, Hoàng tử thứ mười hai cất tiếng khóc chào đời, tiếp sau đó Ô Lạp Na Lạp thị lại sinh hạ Hoàng ngũ nữ (công chúa thứ năm) và hoàng tử thứ mười ba. Từ những điều này có thể thấy, quan hệ giữa Càn Long và Kế Hoàng hậu đã dần trở nên hòa hoãn. Song chút tình thương hại này chỉ kéo dài trong vòng sáu năm, lúc bà gần 40 tuổi, sự chú ý của hoàng thượng đã chuyển dời đến các phi tử trẻ tuổi mới nhập cung. Kế Hoàng hậu lại tiếp tục chuỗi ngày cô đơn tĩnh mịch.
Tháng Giêng năm Càn Long thứ ba mươi lăm, Kế Hoàng hậu cùng Càn Long và Thái hậu Nam tuần. Lần Nam tuần này là bước ngoặc trong cuộc đời bà, lúc vừa bắt đầu cuộc tuần du, hết thảy đều rất bình thường, trên đường đi hoàng thượng còn đích thân chúc mừng sinh nhật lần thứ bốn tám của Hoàng hậu. Ngày mười tám tháng Hai, đoàn đến Hàng Châu, lúc dùng bữa sáng, hoàng thượng còn ban cho hoàng hậu rất nhiều món ngon, nhưng đến bữa tối thì hoàng hậu không xuất hiện nữa, cùng dùng bữa với hoàng thượng chỉ có Lệnh Qúy phi Ngụy Giai thị và các chúng phi tần khác. Về sau mới có tin, ngày hôm đó, Càn Long đã phái ngạch phò Phúc Long (triều Thanh không gọi con rể là phò mã mà là ngạch phò) đưa Hoàng hậu về kinh theo đường thủy.
Rốt cuộc thì đêm đó Ô Lạp Na Lạp thị đã làm gì? Theo như ghi chép trong mục Hậu Phi thuộc phần Liệt Truyện trong cuốn Thanh Sử Cảo, trên đường