#Tử_Cấm_Thành_nghìn_lẻ_một_đêm
#An_soạn
ĐÊM THỨ BA MƯƠI BỐN: TỤC ĐÓN TẾT CỦA CUNG ĐÌNH MÃN THANH
Tết âm lịch là dịp lễ truyền thống quan trọng của cả Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, hôm nay chúng ta chỉ nhắc về tục đón tết ở Trung Quốc mà cụ thể là hoàng gia triều Thanh thời phong kiến.
Đối với cung đình Đại Thanh, các hoạt động khánh điển có liên quan đến việc tống cựu nghênh tân kéo dài đến hơn 50 ngày, tức từ mùng một tháng Chạp năm trước đến hai mươi tháng Giêng năm sau. Tuy 50 ngày này không phải là ngày nghỉ, nhưng từ triều đình, nha môn tới các quan viên đều làm việc bình thường, song trọng tâm sinh hoạt dần chuyển dời sang năm mới và bách tính cũng tận hưởng không khí hân hoan khi tết đến xuân về.
1. Hoàng thượng phát "tiền lì xì" (hồng bao) vào mùng Một tết:
Tế lễ là hoạt động quan trọng vào dịp tết truyền thống, hoàng đế thân là thiên tử, đại biểu cho thần dân trong thiên hạ nên nhiệm vụ tế lễ cũng nặng hơn người thường rất nhiều. Bình thường cứ đến tết, hoàng đế phải thức dậy vào lúc 2 giờ sáng, sau đó đi thắp hương hành lễ hết 30 điện đường, rồi nhận đủ kiểu triều bái (tức lạy), tới bốn giờ chiều mới cùng hoàng hậu và chúng phi tần cử hành gia yến và hưởng thụ được chút "không gian cá nhân".
Các hoàng đế đời Thanh thường tự tay viết chữ Phúc vào mùng Một và lấy đó làm "hồng bao" mang phân phát cho các tướng lĩnh. Thói quen "khai bút chúc phúc" bắt nguồn từ hoàng đế Khang Hy, sau được Ung Chính noi theo và bắt đầu thành lệ dưới thời Càn Long.
Theo như ghi chép trong "Quốc triều cung sử tục biên", vào mùng Một tháng Giêng hằng năm, hoàng đế Càn Long phải đến Bắc Hải tế tự rồi lên Đại Phật Lâu thắp hương cầu phúc, sau đó trở về cung Trọng Hoa - nơi ngài từng ở trước khi đăng cơ- dùng bút lông cán đen có khắc bốn chữ "Tứ phúc thương sinh" thấm mực chu sa viết chữ Phúc.
Chữ Phúc đầu tiên mỗi năm đều được trịnh trọng cất giữ, mãi mãi không mở ra, ngụ ý lưu lại phúc khí. Tiếp theo mới viết chữ Phúc ban cho các vương công đại thần.
2. Tuy là dịp Tết nhưng vẫn phải... tăng ca:
Suốt dịp Tết, trừ việc phải tế tự thì việc nước mà bậc thiên tử phải giải quyết cũng chẳng giảm bớt được bao nhiêu. Vào ngày hai sáu tháng Chạp, hoàng đế đều "phong bút" và "phong tỷ" (phong: cấm, tỷ: ngọc tỷ), đến đại điển vào ngày hai mươi tháng Giêng sẽ "khai bút" và "khai tỷ". Tuy đã "phong bút", nhưng muốn trở thành một quân chủ anh minh thì dù đang độ lễ tết cũng không được thả lỏng chỉ đôi chút.
Từ năm 14 tuổi, hoàng đế Khang Hy đã tự mình chấp chính, từ lúc đăng cơ đến lúc tạ thế, ngoại trừ bệnh tật, ba đại tiết lớn và các biến cố trọng đại bất chợt xảy đến, thì gần như không ngày nào ngài không thiết triều. Dù vào năm Khang Hy thứ 18, ở Bắc Kinh xảy ra động đất lớn nhưng hoàng đế Khang Hy vẫn lâm triều như thường.
Sau khi hoàng đế Ung Chính lên ngôi, nửa đêm, hoàng đế ở tại điện Dưỡng Tâm, ngài bắt đầu khai bút thấm mực đen, trước tiên dùng bút đỏ sau lại dùng bút đen, viết xuống những dòng chữ mang nghĩa cát tường, cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa. Trong suốt 12 năm chấp chính, ngài gần như không có ngày "nghỉ đông", hằng ngày ngài đều phải phê duyệt một lượng tấu chương rất lớn. Đôi khi, vào dịp tết âm, quan lại địa phương dâng tấu ít, ngài còn lệnh tất cả các quan mỗi người trình lên một bản tấu chương.
3. Bữa cơm tất niên của hoàng gia:
Vào dịp tết đến xuân về, thứ quan trọng nhất vẫn là mâm cơm tất niên, các hoàng đế triều Thanh cũng không ngoại lệ. Gia đình đế vương bình thường khó thể có dịp dùng cơm chung với nhau, chỉ có ngày tết mới đặc biệt cho phép các hậu phi bồi yến. Sáng sớm hôm giao thừa, hoàng đế cùng hoàng hậu và các chúng phi tần cùng dùng bữa sáng tại cung Trọng Hoa, còn tiệc tối thì được thiết ở điện Bảo Hòa hoặc cung Càn Thanh, một mình hoàng đế một bàn, bàn ấy gọi là "kim long đại yến trác". Giữa đại yến trác và bảo tọa của hoàng đế có đặt một chiếc trường kỷ, thức ăn được đặt trên bàn,