“Anh có tin vào chuyện nhất kiến chung tình không?” Anh nghĩ ngợi một chút, trả lời tôi: “Chưa từng nghĩ tới.” Tôi nói: “Ba em đối với mẹ em là nhất kiến chung tình, lần đầu tiên ba gặp mẹ chính là ngày ông đang hẹn hò dì, hồi đó dì em đẹp lắm, anh nhìn Nhuế Tĩnh là biết dì em đẹp thế nào. Cạnh nhà hàng mà họ hẹn hò là một nhà sách, lúc đó mẹ em là một nhà thơ có chút danh tiếng, đang ở đó kí sách. Bình thường dì em không bao giờ đi dạo nhà sách, nhưng không hiểu sao hôm đó lại nổi hứng, ăn cơm xong liền muốn đi dạo nhà sách, ba em rất phong độ đi cùng, kết quả mới vừa đặt chân vào nhà sách đã nhất kiến chung tình với mẹ em.”
Nhiếp Diệc đưa ly rượu cho tôi: “Sau đó thì có em.” Tôi lắc đầu: “Đâu có dễ thế, lúc đó mẹ hoàn toàn không nhìn thấy ba, bà còn chê ba không có học thức. Khi đó ba em đang học thạc sĩ ở Stanford, được tuyển thẳng vào trường nhờ học bổng, cứ như vậy mà mẹ chê ba không học thức, còn vì chuyện ba không biết nhà thơ Herman Melville mà khinh bỉ ba! Nói chứ trừ mấy người học văn ra thì ai biết Herman là ai đâu, lần đầu tiên nghe cái tên ấy em còn tưởng ổng là diễn viên điện ảnh.” Nhiếp Diệc nói: “Anh đã từng đọc tác phẩm “Timoleon” của ông ấy, không biết bây giờ đã có bản dịch tiếng Trung chưa.”
Tôi kinh ngạc: “Anh chuyên bên sinh học mà vẫn biết tập thơ đó?!” lại nghĩ, ngay cả “Hỉ bảo” ảnh cũng từng đọc rồi, lập tức bình thường trở lại. Anh hỏi tôi: “Sau đó thì sao?” Tôi nói: “Ba vẫn kiên trì theo đuổi mẹ, đúng rồi, còn học làm thơ vì mẹ nữa. Anh anh nghĩ xem, thời sinh viên ba học khoa học tự nhiên, ngành số học ứng dụng, lên thạc sĩ lại học tài chính công trình, thế thì viết thơ thế nào được? Sau một tháng ròng rã nghiên cứu “Tân nguyệt tập” và “Phi điểu tập” của Thái Qua Nhĩ, ba viết cho mẹ một bài thơ tình, mở đầu thế này- “Mỗi khi/ Màn đêm trước mắt/ buông xuống, trong đầu/ liền hiện ra/ dung nhan/ của nàng/ gương mặt/ tròn như quả táo/ của nàng, còn có những đốm/ tàn nhang/ dễ thương, trên đôi má của nàng.” Đọc xong tôi lâm vào trầm mặc.
Nhiếp Diệc cũng lâm vào trầm mặc một chút, một lát sau anh nói: “Rất có vần điệu.” nghi ngờ nói: “Mẹ vợ liền cảm động?” Tôi thở dài: “Cảm động cái gì, mẹ em tức muốn chết, mẹ em ghét mấy đốm tàn nhang trên mặt dữ dội, cho rằng ba viết bài thơ này là để châm chọc bà, chỉ tội nghiệp ba em, ông chẳng qua chỉ muốn gieo vần thôi.” Nói đến đây tôi bèn dừng lại nói với Nhiếp Diệc: “Nếu như sau này anh viết thơ tặng em, cho dù anh có lớn mật ca ngợi bất cứ bộ phận nào trên mặt em thì em cũng không phát hỏa như mẹ đâu.” Anh nói: “Giá sách bên cạnh em có một cái kính lúp, em đưa giúp anh với.”
Tôi xoay người tìm chiếc kính lúp, ù ù cạc cạc hỏi anh: “Ủa anh lấy kính lúp làm gì vậy?” Anh im lặng một chút: “Để soi thử trên mặt em có chỗ nào đáng được ca ngợi.” Tôi quay đầu lại, ném chiếc gối ôm vào đầu anh: “Còn muốn nghe kể chuyện nữa không đấy?”
Anh vừa cười vừa né chiếc gối: “Muốn chứ, ba vợ không thể nào với tới mẹ vợ, nhưng sao lại có em?” Trên màn hình, con bạch tuộc đang chậm rãi dạo chơi, giống như chiếc khăn lụa thất lạc ở nơi sâu nhất của đại dương. Tôi lấy lại chiếc gối: “Sau đó, sau đó mẹ em ngã bệnh, rất nghiêm trọng, có thể nguy hiểm tới tính mạng. Ba em tạm nghỉ học, về nước chăm sóc mẹ, mãi cho đến nửa năm sau mẹ với xuất viện. Mẹ em là bạn gái đầu tiên của ba, nghe nói ba đã quỳ xuống trước giường bệnh của mẹ để cầu hôn, hồi đó ông vẫn chưa tốt nghiệp, ông nội em cho rằng ba bị điên rồi.”
Đã không thấy con bạch tuộc nữa, tôi ôm chiếc gối: “Nhưng bà nội em suy nghĩ rất thoáng. Bà nói khi gặp phải tình yêu đích thực thì phải nhanh tay nắm lấy.” Bản hòa nhạc nhẹ nhàng vang lên, bầy cá trúc anh màu xám bạc bơi vọt ra khỏi khe nứt dưới đáy biển. Đêm khuya, bầy cá nhảy múa, cảnh vật khi tỏ khi mờ.
Tôi để ý thấy trên hòn đá nhỏ cạnh Nhiếp Diệc có một cây lá đỏ vươn người mọc thẳng, tán cây um tùm mơn mởn, thân cây nổi lên vài cái ụ, không biết là do người ta chăm chút hay là do năm tháng tạo hình, khiến cả cây có vẻ cổ xưa. Có một chiếc lá lỏng lẻo sắp rụng, tựa hồ như muốn rơi trên mái tóc đen nhánh của anh, anh chống một gối ngồi đó, tay phải tùy ý khoát lên trên đầu gối, ánh mắt rơi trên màn hình. Chợt nhớ trước đây ở một triển lãm tranh, tôi đã từng xem qua một bức họa “Hải Thần dưới tàng cây” của một họa sĩ nào đó mà tôi không nhớ tên. Mãi lâu sau, chúng tôi vẫn không nói gì. Ngay lúc đàn cá đang bơi lội biến mất khỏi màn hình, Nhiếp Diệc đột nhiên mở miệng: “Phi Phi, gia đình em hạnh phúc thật đấy.”
Mẹ tôi từng kể gia đình của Nhiếp Diệc chẳng khác nào nhà lao, đây là chuyện mà người ngoài không phải ai cũng biết. Đó là chuyện của ba tháng trước khi chúng tôi đính hôn. Có người bảo rằng tình cảm giữa ba mẹ Nhiếp Diệc vốn không tốt, nhất là khi Nhiếp Diệc còn bé. Ông Nhiếp thường có hồng nhan ở bên ngoài, bà Nhiếp không quản được, đành phải lao đầu vào làm việc công ích để di dời lực chú ý, bà dành phần lớn thời gian tham gia công tác bảo vệ động thực vật hoang dã. Vợ chồng hai người không quan tâm đến Nhiếp Diệc nhiều. Mẹ tôi nói, mẹ Nhiếp Diệc từng khen ngợi anh với bà, bảo rằng từ nhỏ anh đã vô cùng độc lập, có thể một mình đến viện bảo tàng, một mình đến phòng thí nghiệm, có chuyện gì cũng đều tự mình xử lý. Nhưng mẹ tôi cho rằng, không phải Nhiếp Diệc muốn độc lập, chỉ là anh ép phải độc lập mà thôi. Anh được sinh ra trong một gia đình thượng lưu giàu có, nhưng lại chưa từng được trải nghiệm tình cảm gia đình rất đỗi bình dị trên thế gian này. Mẹ tôi cho rằng Nhiếp Diệc chỉ là một thanh niên bình thường, cứ thế mà tội nghiệp cho thời niên thiếu của anh, tôi lại cho rằng Nhiếp Diệc là một thiên tài tầm cỡ Shelton, mà thiên tài thì lúc nào cũng khác với người thường, đúng là anh luôn nhìn nhận vấn đề dưới góc nhìn khoa học tự nhiên chứ không phải khoa học xã hội và nhân văn, thậm chí tôi còn cho rằng có lẽ anh cũng chẳng thèm để ý tới chuyện tình cảm thông thường. Mãi cho đến buổi tối trên đảo V hôm ấy, anh nói với tôi, anh chừa từng chứng kiến bất cứ một tình yêu tốt đẹp nào. Thế mà bây giờ anh lại nói với tôi, Phi Phi, gia đình em thật hạnh phúc. Nói xong anh vẫn bình tĩnh như vậy, lúc nói cũng rất trôi chảy tự nhiên, hoàn toàn không phải là một lời khen lấy lệ, hay là trong lòng anh thực ra đang ẩn giấu sự tiếc nuối và ước ao? Tôi vẫn nhớ, đúng là anh đã nói rất nhiều lần, rằng tôi là người thân của anh. Anh rất thích dùng hai chữ ngời nhà này.
Hải thần cô độc ngồi dưới tàng cây lá đỏ nơi đáy biển. Màn hình sáng tối chập chờn rơi vào đáy mắt. Tôi nắm chặt ly rượu đỏ uống một ngụm, hai ngụm, lại muốn uống thêm ngụm nữa rồi đặt ly xuống, hỏi anh: “Anh vừa nói ‘gia đình em rất hạnh phúc’ phải không?” Anh như đang chìm trong suy tư đột nhiên bị quấy rầy, hơi nghiêng đầu: “Sao thế?”
Tôi lớn mật cầm tay anh đặt chồng lên tay mình, nhẹ giọng nói: “Là nhà của chúng ta.” Bàn tay anh rất ấm áp, ngón tay tôi lại lạnh lẽo, cầm tay anh xong tôi mới bắt đầu cảm thấy hồi hộp, những lời tốt đẹp định nói với anh đã bay đến 9 tầng mây, đầu óc trống rỗng. Anh không mở lời, chỉ im lặng nhìn tôi, mặc kệ tôi ôm ấp bàn tay phải của anh. Tôi nồi xồm cạnh người anh, điệu bộ giống như đang cầu khẩn. Mãi lâu sau tôi mới tìm lại được giọng nói đi lạc của mình, tôi nói: “Em không thể nói rõ hôn nhân rốt cuộc là cái gì, nhưng Nhiếp Diệc, nếu như chúng ta kết hôn, em nghĩ hôn nhân đối với em mà nói, ý nghĩ trọng đại nhất chính là em có thể chia sẻ gia đình và người thân của em cho anh, em là người thân của anh, ba mẹ em cũng là người thân của anh, cho nên đó không chỉ là gia đình của em, mà là gia đình của chúng ta.” Tôi xoay người: “Có thể em nói chưa được rõ ràng, em không biết anh có hiểu ý em hay không, em…”
Anh nói: “Anh hiểu…” Anh nhìn tôi, nhẹ giọng nói: “Em nói rất hay.” Tay tôi đang run lẩy bẩy rất có tiết tấu, tôi vội vàng rút hai tay về, động tác nhanh nhẹn giống như lách khỏi một con thú hoang bất người lao ra từ cây dẻ. Sợ rằng lát nữa tôi sẽ biến thành một người nói nhiều mất, lúc hồi hộp tôi thường lập lại một số động tác, Nhiếp Diệc biết chuyện này. Tôi rút tay quá vội vàng, anh hơi ngờ vực nhìn tôi, không biết anh có phát hiện ra điều gì hay không.
Thật ra thì tôi muốn nói những lời còn dễ nghe hơn thế, tôi muốn nói, Nhiếp Diệc, nếu không nói thì người khác khó lòng biết được, không chỉ có tình yêu, sự quan tâm cũng là một thứ rất dễ bị người ta bỏ quên. Em muốn chia sẻ người thân của em cho anh, nếu như gia đình anh chưa từng cho anh cảm nhận được tình yêu và sự vẹn nguyên, thì em nguyện đem người thân, và cả tình yêu em có chia sẻ hết cho anh, em hy vọng khi đó anh sẽ hạnh phúc hơn, sẽ yêu cuộc sống hơn, anh sẽ tự mình gây dựng một cuộc sống vui vẻ như thế. Nhưng tôi những lời này không thể nói ra được, chí ít thì nây giờ không được. Có thể mãi mãi cũng khôn được. Bầu không khí ngưng trệ trong nháy mắt, tôi nín thở, bỗng có âm thanh cô tịch dưới biển sâu vang lên. Tôi thở ra một hơi, thấp giọng nói: “Nghe xem, đó là âm thanh của cá voi lưng gù, lúc ở biển Tonga em đã từng được nghe hai lần, anh đã từng nghe thấy chưa? Âm thanh của cá voi có tần số cao, trong sách nói có thể truyền xa tới…”
Anh nói: “9 cây số.” Tôi nói: “Đúng rồi, 9 cây số, người ta nói giọng hát của cá voi lưng gù rất êm tai, nhưng em lại thấy âm thanh đó vừa cô đơn vừa u sầu, có lẽ vì em nghe nói, những con cá voi cô độc sẽ hát mãi cho đến khi tìm được bầy đàn, không còn cô độc lưu lạc một mình nữa, cho nên vẫn cảm thấy như thế, âm thanh của cá voi lưng gù rất u buồn…” Nói xong tôi mớ lo sợ anh phát hiện ra điều gì đó. Thói quen thật đáng sợ, cứ hồi hộp là lại nói huyên thuyên, quả nhiên lần này cũng thế, có phải bây giờ câm miệng là đã quá muộn rồi không? Anh biết hết
mọi thói quen của tôi rồi còn đâu.
Tôi ngồi sát mép ghế đá, không khỏi cứng ngắc toàn thân, Nhiếp Diệc lại có vẻ không phát hiện ra được điều gì, trái lại còn nở nụ cười: “Anh nhớ em thường hát một bài ca kì lạ nào đó.” Tôi ngây người hai giây, cố gắng trầm tĩnh lại, lại lấy ly rượu uống 1 ngụm, lại 1 ngụm, lại thêm ngụm nữa, một hơi cạn sạch, buông ly nói: “Em cũng hát mấy bài quen quen mà. Anh từng nghe bài hát này chưa? Thịnh hành hồi em học tiểu học, tựa đề là eversleeping, lấy ý tưởng từ tác phẩm “mối tình dang dở 400 năm’ Mẹ em cũng thích bài này lắm, bảo là có một bản dịch tiếng Trung, dịch giống như là một bài thơ. Để em nhớ lại coi khúc đầu như thế nào ấy nhỉ…” Nhiếp Diệc tiện tay lấy chiếc điều khiển từ xa, bộ phim tài liệu trên màn hình đột nhiên tạm ngừng, tiếng đàn dương cầm quen thuộc truyền ra, tôi kinh ngạc: “Sao cái gì anh cũng biết hết vậy?”
Anh lấy chiếc ly không của tôi châm thêm rượu: “Chẳng phải em thường nói anh là một thiên tài hay sao?” Tôi nói: “Không không, thiên tài cũng không thể toàn trí toàn năng như thế này được.” Tôi khen ngợi anh: “Khi anh rót rượu cũng đẹp trai nữa là sao.” Anh cười: “Muốn anh làm chuyện gì?”
Tôi nhảy xuống ghế, vươn tay ra với anh: “Anh Nhiếp, có thể nời anh nhảy một điệu không?” Lúc Nhiếp Diệc đi tới thì tôi vẫn đang suy nghĩ, tại sao tôi lại đột nhiên muốn mời anh khiêu vũ? Là vì anh mỉm cười đầu độc tôi? Lúc Nhiếp Diệc đưa tay ôm lấy thắt lưng của tôi thì tôi vẫn suy nghĩ, là bởi tôi uống rượu, cho nên trong lòng nghĩ gì thì liền nói ra không hề cố kị? Mới trước đó chẳng phải tôi còn ngại tiếp xúc với anh, sợ người thông minh như anh sẽ nhìn ra cái gì đó hay sao? Chẳng qua chỉ là một ly rượu. Rốt cuộc rượu là thứ gì, nếu như người muốn say thì cho dù chỉ nhấp một chút, nó vẫn lập tức phát huy tác dụng; rốt cuộc cồn là thứ thần minh gì mà có thể hùng hồn trợ giúp con người phóng thích ái tình cùng dục vọng? Thôi kệ nó đi.
Chẳng qua tôi chỉ muốn cùng Nhiếp Diệc nhảy một điệu mà thôi. Mặc dù chúng tôi đều đang mặc piyama. Thì ra 16 phân cũng là một khoảng cách rất dài, không ngửa đầu thì nhìn không thấy mặt Nhiếp Diệc, tay trái tôi khoát lên vai anh, tay phải nằm gọn trong tay anh. Toàn bộ căn phòng được âm nhạc êm ái lấp đầy. Thời gian tựa như thác nước dội xuống từ vách đá dựng đứng, một bên tĩnh lại, một bên hối hả trôi. Chúng tôi vòng qua một chậu ngũ diệp tùng tùng, giữa những tia sáng ảm đạm, giọng nói của Nhiếp Diệc vang lên trên đỉnh đầu tôi: “Mặc dù ca từ được lấy cảm hứng từ phim ảnh, nhưng anh nhớ bài hát này vẫn được người ta quay một MV riêng, câu chuyện trong đó hoàn toàn khác với phim.”
Tôi lập tức nhớ lại: “Đúng rồi, bản điện ảnh kể rằng Dracula mất đi người vợ yêu dấu nên biến thành huyết quỷ, MV lại nói về một nữ nhạc sĩ dương cầm mất đi người chồng yêu dấu, ngày ngày đắm chìm trong nỗi đau buồn. Thật ra thì vong hồn của chông cô ấy vẫn luôn ở bên bầu bạn với cô, chỉ là cô không hay biết. Em còn nhớ rõ cành hoa hồng mà người chồng tặng cho cô ấy, từ trước đến giờ em vẫn chưa thấy cành hồng nào đẹp đến thế.” Anh nói: “Anh không quan tâm tìm hiểu mấy bài hit lắm, em vừa nói mẹ vợ biết một bản dịch rất hay phải không? Là như thế nào?” Tôi suy nghĩ một chút, nói: “Đêm qua tôi gặp lại chàng trong mộng, chàng tới gần tôi khẽ thì thầm: ‘Tình yêu của tôi, vì sao em khóc?’ vì thế đời tôi không chỉ còn tuyệt vọng, mãi đến khi đôi ta đồng kim cộng chẩm, sát cánh bên nhau dưới nấm mộ chung.”
Một hồi lâu, anh nói: “Sự mất đi là một đề tài đau buồn, vì sao em lại thích?” Tôi hiểu ý anh, chồng mất vợ, vợ mất chồng, đây hẳn không phải là một đề tài hay ho, tôi nói: “Cũng không phải là thích, anh không cảm thấy nỗi đau xé lòng này thật ra cũng rất cảm động sao? Dracula vì không thể chấp nhận được cái chết của vợ mà quỳ phục ma quỷ, dùng cây thương mà đâm chúa Jesus trên thập tự giá; nữ nghệ sĩ dương cầm vì không thể chấp nhận được cái chết của chồng, cuối cùng nuôi ý định tự sát. Phân cảnh cuối cùng thực ra em xem không hiểu lắm, nhưng em nghĩ vậy cũng tốt. Sống vì mình thấy vui, chết cũng nên vì mình thấy toại nguyện, nếu như sau khi chết người ta có thể biến thành vong hồn thì có nghĩa là họ đã vượt qua ranh giới sinh tử, cái chết là một điều linh thiêng, có lẽ sau khi chết người ta sẽ lại sống trong một trạng thái khác. Đi qua cánh cửa sinh tử, sống trong trạng thái khác, ở bên thủ hộ cho người mình yêu thương, như vậy không tốt sao?” Chúng tôi lại vòng qua một hòn đá cảnh cao ngất nhưng trơ trọi, góc này rất tối, tôi dũng cảm đưa tay quàng lên cổ anh, kéo gần khoảng cách với anh, dường như anh không phát hiện ra, cất giọng bình thản: “Tất cả các giả thiết về linh hồn mà em vừa nói đó, hiện giờ có rất nhiều người nghiên cứu vấn đề này, cũng có người nỗ lực dùng quan điểm cơ học lượng tử để chứng minh linh hồn thực sự tồn tại, nhưng chúng không thể quay về thân xác một cách hoàn mỹ.”
Tôi thở dài: “Ý anh là linh hồn không phải là không tồn tại? Thật ra em chỉ suy nghĩ vẩn vơ thôi, nhưng nếu linh hồn không hề tồn tại, hơn nữa em phải tin vào điều này, thế thì lúc phải đối mặt với tử thần em sẽ đau khổ lắm.” Tôi lấy ví dụ: “Giả dụ như nếu em chết trước mặt anh, anh sẽ dễ chịu hơn khi tin rằng em đã hoàn toàn rời xa thế giới, hay là linh hồn của em vẫn trở về xem TV cùng anh mỗi đêm? Anh nhập tâm một chút?” Anh thấp giọng cười: “Bất luận là dưới tình huống nào, lừa mình dối người lúc nào cũng dễ hơn thừa nhận hiện thực, nhưng mà, Phi Phi, hiện giờ em rất khỏe mạnh.” Cơn chếnh choáng bốc lên, tôi lại mà bắt đầu thao thao: “Anh nhập tâm một chút, anh cảm thấy nếu em có thể trở về xem ti vi cùng anh sẽ tốt hơn có phải không? Em cũng nhập tâm thử xem, thành thật mà nói, căn bản là em không có cách nào chấp nhận được, cho dù tin rằng anh chết đi nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại em vẫn không chấp nhận được, chứ đừng nói chi là linh hồn không hề tồn tại.”
Anh tùy ý nói: “Sao em nhập tâm được?” Tôi nói: “Chỉ cần tưởng tượng khi chúng ta già đi, sau đó anh ra đi trước em, anh nhiều tuổi hơn em mà, chuyện này rất có thể sẽ xảy ra.” Bước chân của Nhiếp Diệc hơi khựng lại, lúc đó tôi mới nhận thức được mình vừa nói điều gì.
Anh không nói gì, dìu tôi lướt qua cây hắc tùng, tùng năm lá, rồi chòm hoa tử đằng gỗ đỏ, điệu nhảy của chúng tôi không có bất cứ vấp váp nào, nhưng tôi không nhớ rõ mình đã di chuyển ra sao. Ca sĩ bắt đầu cất giọng cao vút: “Tôi nguyện an giấc nghìn thu, hằng đêm gặp anh trong giấc mộng.” Nỗi buồn phiền dấy lên, Nhiếp Diệc đột nhiên mở miệng: “Anh chưa từng nghĩ rằng em sẽ cùng anh đến già.”
Ta nói: “A đúng rồi, có thể chúng ta sẽ không bên nhau đến khi đầu bạc.” Tôi lúng túng cười: “Đây cũng chỉ mới là lần đầu em nghĩ tới chuyện này, em là người làm nghệ thuật mà, tình cảm rất phong phú, em nghĩ nếu như, đương nhiên chỉ là nếu như, nếu như chúng ta ở bên nhau suốt đời, nếu như anh ra đi trước, em chịu không nổi là một điều rất tự nhiên thôi, bất cứ người nào có tình cảm phong phú đều không chịu nổi hết, vốn quen sống hai người, một người đột nhiên biến mất thì sẽ tịch mịch biết bao nhiêu, à, khoa học gia các anh có thể không hiểu thấu chuyện này được, cảm giác cô đơn thực sự rất cảm tính, không hề lý trí, ý của em là…” Tôi cũng không biết mình đang nói cái gì. Tôi càng cố trấn định, lại càng rối rắm. Trước đây tôi không sợ gì cả, bây giờ lại sợ rất nhiều thứ. Có đôi khi tôi căm thù bản thân mình vì đột nhiên lại trở thành một kẻ nhát gan, nhưng trên đời này chỉ có duy nhất một người có thể làm tôi trở nên nhát gan, có lúc tôi lại cảm thấy một chút khổ sở ngọt ngào. Tình yêu có trăm nghìn tư vị, đây có thể là một loại tư vị của nó. Đầu xoay mòng mòng, phải tìm cách trong một khoảng thời gian hạn hẹp khiến tôi chết máy. Nhiếp Diệc lại đột nhiên kề sát tôi, anh nói: “Phi Phi, anh chưa từng nghĩ rằng em sẽ ở bên anh cho tới lúc già.”
Tôi uể oải nói: “Anh không cần nhắc lại điều này.” Anh nói: “Nhưng nếu em nguyện ý, anh sẽ rất vui.” Tôi câm nín suốt ba giây đồng hồ, khi mở miệng chỉ thấy cổ họng đau rát.
Tôi kiềm chế bản thân, bỡn cợt anh: “Bởi vì em không gây phiền phức cho anh?” Mà lúc này tôi mới phát hiện mới vừa rồi tôi đã bất giác cắn môi, bây giờ đau đến tê dại. Một lúc lâu sau anh nói: “Có lẽ không chỉ như thế.” Tôi sửng sốt một chút, sơ sểnh bật câu nói kia ra khỏi miệng, tôi nói: “Cho nên Nhiếp Diệc, nếu như em ra đi trước anh, anh có thấy cô đơn không?”
Bài hát đã sắp kết thúc, nữ ca sĩ trầm giọng nhẹ nhàng hát: “Mãi đến khi đôi ta đồng kim cộng chẩm, sát cánh bên nhau dưới nấm mộ chung.” Anh thấp giọng nói: “Có thể,” tôi nói: “Có thể gì cơ?” Anh đáp: “Có thể sẽ cảm thấy cô đơn hơn trong tưởng tượng.” Tôi nhón chân ôm lấy anh, hai tay quàng cổ anh, đặt cằm trân vai anh, nước mắt âm thầm rơi xuống, tuyệt đối không thể để cho anh nhìn thấy.
Anh nhẹ nhàng vỗ lưng tôi, nhẹ giọng hỏi: “Sao vậy em?” Tôi tựa đầu vào hõm vai anh, càng dùng sức ôm chặt anh hơn, tôi nói: “Anh cứ mặc kệ em, em say rồi…”.