Ba chữ Đông Phương giáo làm Bạch Vân giật mình. Gã chợt nhớ đến Tôn Sơn, lão hộ pháp. Người này cũng một chưởng đã làm gã phải khốn khổ không thôi. “Lão tiền bối vừa rồi cũng là một trong tứ đại hộ pháp của Đông Phương giáo thì phải.” Bạch Vân ngồi xếp bằng lại, gã vận công điều tức cho chân khí trong người bình ổn trở lại.
Một canh giờ sau, Bạch Vân đứng dậy. Nhìn hai quyển sách đang cầm trên tay, gã tự hỏi: “ta đang làm cái quái gì ở nơi đây thế nhỉ?” Kiếp trước rong chơi mãi còn chưa thấy mãn nguyện hay sao chứ? Khi đến Đại Nam này, gã thấy mọi thứ đều mới mẻ, nhiều điều làm gã thích thú, tò mò. Nhưng chẳng lẽ cứ chạy theo cái ham muốn “Đỗ Thánh” kia sao? Gã chưa từng nghĩ đến sẽ tìm cách để quay trở về thời hiện đại, cũng như chưa từng nghĩ sẽ phải làm gì trong thời đại bây giờ cả. Gã muốn làm Đỗ Thánh. Đúng, nhưng đó chỉ là một việc trẻ con trong tâm tư còn đang muốn rong chơi của gã. Làm được rồi thì sao chứ, chẳng lẽ lại sống như vậy đến cuối đời. Như vậy không khỏi quá tẻ nhạt hay sao? Kiếp trước gã đã từng ao ước có một người con gái bên cạnh, cùng gã san sẻ mọi vui buồn. Đó là lý do vì sao mà gã lại chạy theo một cô gái không hề quen biết trong công viên. Bây giờ thì sao, giấc mơ của gã đã sắp thành hiện thực. Nhưng cuộc đời dường như đang thử thách gã thì phải. Nghĩ đến đây, ánh mắt gã hiện lên hình bóng của Nguyễn Thanh Trúc. Lần đầu, lần đầu tiên trong đời. Gã cảm thấy nhớ thương một người đến như thế. Nàng tìm mọi cách để có thể tăng tiến võ công cho gã, nếu còn không hiểu tâm ý của nàng? Gã nên đổi tên thành Bạch Miêu, đừng dùng tên Bạch Vân nữa.
Bạch Vân nắm chặt hai quyển sách trong tay, gã nhìn về hướng mà Nguyễn Thanh Trúc rời đi, nói lớn:
“Trúc muội, hãy chờ ta.”
Gã nói xong liền nhảy lên lưng con Hắc Thiên mã, lập tức rời đi.
…
Bên trong khu rừng có một thác nước, con suối mát rượi chảy dài làm người ta cảm thấy khoan khoái, dễ chịu. Bạch Vân dừng chân nghỉ ngơi. Gã tháo yên ngựa ra, để Hắc Thiên mã tự do uống nước, ăn cỏ. Gã cầm đến thanh kiếm lại nhớ đến Nguyễn Thanh Trúc. Gã chợt hát:
“Và anh sẽ nhớ mãi những phút mặn nồng
Khi anh ôm thương yêu vào lòng
Ôm tia nắng của ngày giá rét
Cho đời này bao ấm áp
Em như muôn ngàn giọt mưa xuân
Ân tình trời xanh tươi thắm
Hãy đến đây cùng anh
Để anh mãi ấp ôm và mãi có em trong đời.”
“Sao ta lại trở nên ủy mị như thế?” Gã lắc lắc đầu, cởi y phục ra rồi nhảy ùm xuống nước. Dòng nước mát lạnh giữa trời nắng nóng làm gã quên đi mọi thứ, chỉ còn lại sự thư giãn và niềm hưởng thụ.
Tắm rửa một lúc, Bạch Vân bơi đến dưới ngọn thác. Gã ngồi trên tảng đá dưới thác nước luyện công. Sau khi bị trúng một chưởng của lão già có thân thế thần bí kia. Bạch Vân biết nội lực của mình tuy nhiều nhưng chưa tinh thuần, còn phù phiếm lắm. Từ ngày rời khỏi hang động, gã rất ít khi bỏ thời gian luyện công. Đối với người luyện võ, nội lực là vô cùng quan trọng vì thế ngày ngày đều phải tu luyện thì mới có thành tựu được. Dựa vào nội lực mà những môn khinh công, kiếm pháp, chưởng pháp, chỉ pháp… đều được phát huy đến chỗ đỉnh điểm.
Tôn Sơn nội lực tất nhiên hơn hẳn Bạch Vân nhưng lúc đó: một là lão khinh địch, hai là lão còn đề phòng bị kẻ khác ám toán, nên tinh thần lão bị phân tán. Lão cho rằng một tiểu tử trẻ tuổi chẳng thể nào chống đỡ nổi một chưởng của lão. Nhưng khi nhận ra đã sai lầm, lão lại vận toàn lực đánh thêm một chưởng, mà khi đó chân khí trong người lão đã tán loạn, nội lực lão bị phản chấn rất nhiều, vì thế không làm trọng thương Bạch Vân được. Lúc đối chưởng với Tôn Sơn, Bạch Vân tìm đường sống trong hiểm cảnh. Vì thế tinh thần và nội lực đều ở trạng thái đỉnh phong mà khi con người bị dồn vào thế bí, tiềm lực sẽ phát ra gấp bội. Thế nhưng khi đánh một chưởng với lão già thần bí lại thảm bại: một là nội công của lão thâm hậu vô cùng, hai là Bạch Vân quá tự tin vào bản thân mình mà trở thành ếch ngồi đáy giếng. Chỉ là một kẻ vừa luyện được nội công nửa năm lại dám đối một chưởng với lão già chỉ cười một trận đã làm bụi bay lá rụng, gã thật quá ngông cuồng rồi. Nhưng lão ra tay rất chừng mực, không gây nội thương cho gã. Mà việc lão tặng kiếm phổ, cũng cho thấy lão có quan hệ gì đó với Nguyễn Thanh Trúc, lão không muốn nàng phải đau lòng.
Bạch Vân luyện nội công hai canh giờ. Gã bơi vào bờ mặc y phục. Bây giờ đã xế chiều, thế mà ánh nắng vẫn chưa nhạt đi một chút nào. Gã mở quyển kiếm phổ ra xem. Liên Phong kiếm pháp này chẳng có một lời giới thiệu nào cả, chỉ toàn hình vẽ hướng dẫn và khẩu quyết. Xem lướt qua hết tất cả, gã đóng kiếm phổ lại thầm nghĩ: “thì ra đươc gọi là Liên Phong Thất Kiếm vì như thế.” Nguyên Liên Phong Thất Kiếm không phải có bảy chiêu mà là mỗi chiêu khi xuất ra được biến hóa đến bảy lần, mỗi chiêu đều liên tiếp với nhau rất liền mạch không bị đứt quãng vì thế mới gọi là Liên Phong. Trong Liên Phong kiếm pháp này chỉ có năm chiêu. Chiêu thứ nhất: phòng thủ chặt chẽ. Chiêu thứ hai: công thủ phối hợp. Chiêu thứ ba: công chính là thủ - tấn công như gió thổi chớp giật, ra tay nhanh và chớp nhoáng, kẻ địch không kịp đón đỡ thì nào còn cơ hội phản công. Chiêu thứ tư: lấy tĩnh chế động, lấy nhanh thắng chậm. Chiêu thứ năm: vô kiếm.
Bạch Vân nghĩ hoài cũng không ra: “bộ kiếm pháp tuyệt diệu như thế này, tại sao lão lại ình?”
Gã nhớ đến câu nói của lão già: khi nào đem trả lại kiếp phổ, khi ấy mới được gặp lại nàng. “Chẳng lẽ… chẳng lẽ lão cố ý đưa ra một bộ kiếm pháp cao siêu?”, “Phải rồi, lão cho rằng ta