Ông ta chuyển đến Tổng thống Nam Việt lời chào và chúc sức khỏe của Tổng thống Mỹ. Diệm cũng làm như vậy, thêm vài câu chúc tân đại sứ đóng góp hữu hiệu vào mối quan hệ thân hữu giữa hai quốc gia. Điều duy nhất mà Diệm nhắc là ông ta mong Cabot Lodge tận tụy và khách quan như cựu đại sứ Nolting. Đáp lại, cũng là điều duy nhất mà Cabot Lodge gợi ý là Chính phủ Việt Nam Cộng hòa nên “thắt chặt khối đoàn kết quốc dân chung quanh Tổng thống.” Chẳng rõ có phải vì gợi ý của Tổng thống hay không mà mấy hôm sau, báo chí đưa tin Ngô Đình Diệm viếng một ngôi chùa ở Phú Nhuận. Cử chỉ rất tượng trưng này của Diệm lọt thỏm giữa một tràng biến cố ồn ào: Vương quốc Cambốt tuyên bố đoạn giao với Việt Nam Cộng hòa; Vũ Văn Mẫu hành hương sang sứ Phật Ấn Độ, chùa Xá Lợi được giải tỏa nhưng Chính phủ cử một ban quản trị mới thuộc Hội phật học Nam Việt giữ chùa. Tổng trấn Tôn Thất Đính cho biết số học sinh, sinh viên giam ở Quán Tre đã được trả tự do, trừ vài người. Chính phủ hình như quyết định phản công bằng chính trị: Thanh niên, Thanh nữ Cộng hòa biểu tình lớn ủng hộ Chính phủ và Tổng thống; các trường trung học mở cửa lại... Quần chúng vẫn có cách phản ứng: học sinh các trường lớn như Trưng Vương Võ Trường Toản... không chịu đi học.
*
Ngày 2-9, vào buổi chiều, một chiếc xe Ford dừng trước nhà Luân. Xe mang số tư nhân, không có hộ tống. Thạch mở cổng cho Luân đi làm về, vừa thay quần áo, đang đùa với bé Lý và chờ Dung còn ở nơi làm việc. Khách vào nhà, tất cả bốn người – đều là người Mỹ. Ba dừng ngoài sân, một bước nhanh lên bậc thềm. Khách cao quá khổ, mặc bộ tropical xám tro. Khách là tân đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge.
- Xin lỗi đại tá, tôi đường đột đến nhà riêng đại tá mà không xin phép. Tôi không muốn cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng ta bị nhà báo lợi dụng.
Cabot Lodge chìa tay. Luân hơi bối rối vì bộ quần áo mặc trong nhà của anh.
- Đại tá khỏi thay quần áo. – Cabot Lodge hiểu liền sự bối rối của Luân – Ta nên xem nhau như bạn... Hẳn là bà đại tá đi làm chưa về.
Cabot Lodge không đợi Luân mời, đã ngồi xuống ghế, sau khi vuốt tóc bé Lý:
- Chà, chú bé Lý kháu quá! – Cabot Lodge khen.
“Gã biết về mình khá rõ!” – Luân nghĩ – “Gã biết chắc giờ này mình có ở nhà, Dung chưa về, biết cả thằng bé Lý.”
Chị Sáu mang nước.
- Chào chị Sáu! – Cabot Lodge nói và Luân dịch lại. Chị Sáu ngỡ ngàng buột miệng:
- Vì sao ông đại sứ biết thứ của tôi?
Luân chưa kịp trả lời thì Cabot Lodge đã nói:
- Có phải bà ta ngạc nhiên vì tôi gọi đúng tên của bà ta? Tôi còn biết người mở cổng tên Thạch, quê Chợ Gạo, tức là một vùng quê thuộc châu thổ sông Cửu Long, còn biết bác sĩ Soạn, biết kĩ sư Gustave...
Nói xong Cabot Lodge cười ha hả.
“Ngón đòn phủ đầu đây!” – Luân nhận xét.
Luân hiểu về Cabot Lodge cũng không kém. Anh bắt đầu nghiên cứu về tay chính khách cỡ bự này khi gã xuất hiện trong các cuộc vận động tranh cử bên Mỹ.
Henry Cabot Lodge Jr, sinh ở bang Massachusetts, năm nay sáu mươi mốt tuổi, vợ là Emili Sears, hai con – Georges Cabot và Henry Sears – thuở nhỏ học ở Boston, quê nhà, Tiến sĩ Văn chương Đại học Laval ở Canada, dạy học ở nhiều trường, viết các báo lớn ở Mỹ như Boston Evening Transcrift, New York Heral Tribune, Time, Life, Fortune magazines, Tổng giám đốc Viện nghiên cứu Đại Tây Dương, Thượng nghị sĩ bang Massachusetts, đại diện Mỹ trong Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc từ năm 1953 đến 1960... Tóm lại, một nhân vật nặng kí so với các đại sứ Mỹ tiền nhiệm ở Việt Nam Cộng hòa. Rõ ràng, Kennedy “xuất chủ bài” để đối phó với tình hình đã dấn sâu vào rối loạn ở Sài Gòn. Và, Kennedy cũng ít nhiều có ẩn ý: Cabot Lodge là lãnh tụ Đảng Cộng hòa, thôi thì các anh Cộng hòa ó ré về chính sách của Chính phủ Mỹ thuộc Đảng Dân chủ ở Viễn Đông, mời các anh tự tay giải quyết!
- Chúng ta bắt đầu, được chứ?
Cabot Lodge hỏi, không cần Luân đồng ý, nói luôn:
- Đại tá hãy tìm hiểu sau, hoặc tôi sẽ nói nhờ đâu tôi nắm các chi tiết quanh đại tá... Tướng Collins, đại sứ Rheinardt, Durbrow, và – Cabot Lodge bỗng cười nụ - Tướng Jones Stepp đều dặn tôi: người Việt Nam đầu tiên mà tôi cần gặp ở Sài Gòn là đại tá... Tất nhiên gặp theo cái nghĩa trọn vẹn, chứ tôi đã gặp tại sân bay Tân Sơn Nhất Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, Ngoại trưởng Mẫu – gặp tôi xong, ông Mẫu xuống tóc và tôi phải thanh minh rằng hành động của ông Mẫu không hề liên đới một tí gì với tôi – và đã trình ủy nhiệm thư cho Tổng thống Diệm... Tiện thể, xin báo cáo với đại tá tin vui: tướng Jones Stepp và phu nhân, bà Saroyan ấy mà, sắp sang Sài Gòn...
Luân vui thật. Thế là Saroyan giữ lời hứa. Có Saroyan lúc này, lợi cho công việc của Luân. Cabot Lodge đánh giá vẻ rạng rỡ của Luân theo hướng khác:
- Tướng Jones Stepp quý đại tá, qua phu nhân... Và, mọi quý trọng đều có giới hạn.
Luân không cần cãi lại. Anh hiểu Saroyan hơn là Cabot Lodge. Trong khoảnh khắc, công vụ lùi xuống hàng thứ yếu và Luân xót xa. Saroyan có quyền có một người chồng mà cô ấy yêu, còn việc cô ấy nhận lấy Jones Stepp, tuổi đáng bố cô, thì vì Luân...
- Theo đại tá, tình thế Nam Việt hiện thời ra sao? – Cabot Lodge đi vào trung tâm của cuộc gặp gỡ không hẹn này.
- Xấu... rất xấu! – Luân trả lời gọn.
- Xấu theo nghĩa nào?
- Theo nghĩa, tiềm lực đoàn kết quốc gia bị phá hoại nặng nề, Chính phủ đối địch với dân chúng...
- ... Và tạo cơ hội cho Cộng sản thu thắng lợi? – Cabot Lodge nói xen.
- Hậu quả đó là tất nhiên...
- Đại tá thấy có lối ra không?
- Chỉ thấy có sự phức tạp!
- Đâu đến bi quan như thế? Bác sĩ Trần Kim Tuyến gặp tôi... - Cabot Lodge nhìn chằm chằm vào mặt Luân – Chỉ mười lăm phút thôi, tôi thấy ông Tuyến không bi quan!
- Bi quan hay lạc quan là khái niệm và cảm thụ có thể của từng người, ông Diệm đang lạc quan đấy... Nhưng, trên lợi ích rộng lớn, ai cũng phải đắn đo, nhất là vị đại diện cho nước Mỹ. Có lần, tôi hỏi đại sứ Frederick Rheinardt: liệu người Mỹ định đưa bao nhiêu quân vào Nam Việt?
- Đại sứ Rheinardt trả lời như thế nào?
- Đại sứ lắc đầu.
- Tôi không khác ý đại sứ Frederick Rheinardt. Nếu đại tá nêu câu hỏi như vậy, tôi cũng lắc đầu. Tôi cho là mười tám nghìn người Mỹ ở đây là thừa. Tôi muốn giảm...
- Một nguyện vọng lành mạnh! – Luân kêu lên. - Song thưa đại sứ, chỉ là nguyện vọng. Tôi muốn nhân dịp này xét duyệt, cùng đại sứ, một vài tấm gương. Ta hãy soi gương người Pháp... Được chứ?
- Tốt! Mời đại tá... Người Pháp ở Đông Dương?
- Không! Người Pháp ở Algérie. Bài học Đông Dương mà người Pháp rút ra là: phải có quân số đông hơn đối phương mới hòng chiến thắng. Họ đã nhân lí thuyết của Mao Trạch Đông lên gấp mấy lần – Mao bảo ba đánh một, người Pháp theo công thức mười một đánh một: bảy trăm sáu mươi nghìn, để đè bẹp sáu mươi lăm ngìn quân kháng chiến Algérie. Đánh nhau tám năm, mỗi ngày Pháp tốn 15 triệu franc. Đến hai cuộc phản nghịch trong nội bộ Pháp, rất hiếm đối với các nước văn minh phương Tây. Tướng Salan và Massu dù bị trừng phạt, nước Pháp vẫn lao đao, nền Đệ tứ cộng hòa sụp đổ... Có thể nói là nước Pháp đã thắng bằng quân sự ở Algérie nhưng rồi người Pháp phải ra đi, đi vĩnh viễn...
- Tôi hiểu ý đại tá. Còn tấm gương nào nữa?
- Hy Lạp... Thống chế John Harding của Anh có những bốn vạn quân trong khi cách mạng Hy Lạp chí có ba trăm quân, dưới quyền của Đại tá Grivas...
- Và, người Anh đã thắng!
- Đánh nhau năm năm... Quân số thay đổi, người Anh sắp thua nếu không có ván bài chính trị... Đúng, người Anh đã thắng, nhưng không thắng bằng quân sự... Đáng tuyên dương không phải John Harding, mà cơ quan tình báo Anh!
- Cứ cho đại tá có lí, Nam Việt thì sao?
- Đại sứ đã đọc bài South Vietnam’s international problems(1) đăng trong Pacific Affairs, số tháng 9-1959, của Bernard Fall chưa?
(1) Những vấn đề nội tại của Nam Việt.
- Rất tiếc...
- Giáo sư Bernard Fall do khối SEATO thuê nghiên cứu công trình “Sự thâm nhập của Cộng sản vào khu vực.” Ông ta trình cho SEATO một lô nhận xét, đáng để ý là, Nam Việt đã bị bao vây và chia cắt bởi trong một thời gian ngắn, Cộng sản đã thủ tiêu các nhân viên cai trị của chính quyền Sài Gòn thuộc cấp xã. Phát hiện của Bernard Fall dẫn đến thông điệp liên bang của Tổng thống Kenendy tháng 5-1961