Phần 3 - Chương 1
Phát súng trên cao nguyên
Khuôn viên rợp tàn cổ thụ êm ả đến nỗi từ gian phòng lớn – xưa kia, Toàn quyền Đông Pháp và Đại Nam Hoàng đế Bảo Đại vẫn ngự mỗi khi vào Sài Gòn. Tổng thống Ngô Đình Diệm nghe rõ cả tiếng lá rơi bên ngoài. Qua cửa sổ, Tổng thống mơ màng nhìn chiếc thảm cỏ sân trước trải rộng một màu xanh dịu dàng. Các chuyên gia quả không uổng công du học: thảm cỏ đã cho Tổng thống cảm giác là Dinh Độc Lập bồng bềnh giữa một thảo nguyên mênh mông.
Tổng thống thích đi bách bộ vòng quanh dinh, ông vừa làm xong việc đó mà ông muốn mọi người xem như thói quen của một Tổng thống – đi bách bộ để suy gẫm quốc gia đại sự. Dưới ánh nắng bình minh, lâu đài quét vôi màu vàng nhạt nổi lên với tất cả phong thái bệ vệ. Tổng thống thầm cảm ơn kiến trúc sư Hermitte, người thiết kế, phó đô đốc De La Grandière, người đặt viên đá đầu tiên, đã lưu lại một công trình thi công vỏn vẹn mười chín tháng – từ 23-2-1868 – góp vào vẻ đẹp của “Hòn ngọc Viễn Đông.” Đôi khi ông chợt so sánh dinh Norodom này – mà ông quyết định gọi là Dinh Độc Lập – với Viện Cơ mật ẩm ướt nằm trong Hoàng thành Huế, nơi có lúc ông giữ ấn đầu triều kiêm Thượng thơ bộ Lại. Lúc đó, ông chưa kịp đánh giá – đúng ra, ông hơi choáng ngợp, bởi dầu sao Viện Cơ mật vẫn đồ sộ hơn dinh Tuần Vũ Bình Thuận và dinh Tuần Vũ vẫn đồ sộ hơn chỗ làm việc của viên tri huyện Hải Lăng. Nhưung, thời gian giữ ngôi tể tướng quá ngắn ngủi – chưa được một năm – ông đã phải cay đắng bàn giao cho Phạm Quỳnh, cái gọi là “cuộc cách mạng cung đình” (nhằm đưa số trẻ vào nội các thay cho số già) xì hơi nhanh hơn bánh xe thủng ruột. Lí do thất sủng của ông được hiểu mỗi người một phách. Lúc đầu ông sợ nhưng về sau ông thấy hay hay về cái dư luận cho ông vì “chống Tây,” “chống vua bù nhìn” nên phải ra rìa. Cũng có lúc cái dư luận gán ông là “thân Nhật,” “muốn đem Cường Để về thay Bảo Đại” đe dọa đẩy ông vào khám, song khi Nhật nổ súng ở Lư Cầu Kiều, ông được an ủi ít nhiều và mơ mộng ít nhiều. Còn dư luận cho rằng ông quá trẻ - bấy giờ ông mới ba mươi hai tuổi – để đảm đương trọng trách tể tướng, ông thích thú. Nó mơn trớn tính tự phụ của ông. Gia tộc ông đều “Nhất phẩm đại thần” – cha từng là Phụ chính, anh ruột làm Tổng đốc nhưng chưa ai rút ngắn hoạn lộ bằng ông và chưa ai vừa đến tuổi “thành nhân chi mỹ” đã trèo lên ghế cực phẩm như ông. Một dư luận khác, có vẻ thâm thúy hơn, giúp ông tính toán bước đi sau này: những năm 1930, Pháp muốn thực hiện một chính sách phỉnh phờ ở Đông Dương, Phạm Quỳnh là nhà báo làm Thượng thư bộ Học thích hợp hơn ông – quá khứ của ông đánh dấu bằng những vụ sát phạt đẫm máu suốt dải Bình Trị Thiên, sẽ hữu dụng lúc khác. Vả lại, ông thuộc một gia đình đạo Thiên Chúa toàn tòng, khó mà thuận thảo với các đồng liêu hấu hết nếu không theo Khổng cũng là tín đồ đạo Phật.
Mười bảy năm – kể cũng khá dài – ông đứng ngoài lề chính sự. Đôi lúc, ông ao ước nhà vua hồi tâm. Nhưng, nhà vua làm gì có thể nhớ đến ông: vợ của Nguyễn Duy Quang, vợ của các viên quan sẵn sàng nhận ơn vũ lộ. Hoàng thượng bận rộn với những chương trình tính hằng đêm… Các người bạn Pháp – họ tiếp cận Toàn quyền, Khâm sứ khuyên ông cứ ẩn nhẫn chờ thời. Về mặt kinh tế, ông chẳng gặp một chút khó khăn nào. Ông đứng ngoài lề chính sự - nói theo nghĩa ông không đảm đương một chức vụ. Chẳng lẽ ông nài nỉ Hoàng đế xin một cương vị thấp hơn cái ông đã mất. Dù sao, ông không thể bắt chước Nguyễn Công Trứ một mực tuân phục ý chỉ của quân thượng, từ Thị lang tụt xuống làm tên lính thú sơn phòng, rồi bò lên Án sát… Chữ “Trung” trong ông không còn giữ nguyên chất. Trên tất cả, ông có Chúa Trời. Vả lại, vua nào chớ vua Bảo Đại thì khó mà cảm hóa ông thành lương tể được.
Ông tự an ủi: Ông Khương Tử Nha ngày xưa đến tám mươi mới nhận lời thỉnh của Võ Vương Cơ Phát, cầm búa Việt cờ Mao phạt Trụ, hà huống tuổi ông chưa bằng nửa ông Khương. Hơn thế, sau mấy năm đọc sách, quan sát và suy nghĩ, ông tự thấy không nên quá khiêm tốn, dừng ước vọng ngang mức ông Khương.
Từ khi ông thôi quan, tình hình trong và ngoài nước phát triển vùn vụt. Trong nước, Cộng sản lộng hành, ngay ở vùng ông trị nhậm xưa kia và ông đã trừng trị chúng với tất cả sự cứng rắn, vượt qua luật Gia Long hà khắc. Phong trào Mặt trận Bình Dân bên Pháp trực tiếp yểm trợ cho Cộng sản bản xứ và ông thắc mắc mãi vì sao nhà nước Pháp mềm yếu như vậy. Ngoài nước, Hitler lên nắm quyền ở Đức, chương trình Đại Đông Á của Thủ tướng Nhật Bản Đông Điều(1) gây bàn tán xôn xao trong các giới mà ông thân quen.
(1) Tức Hideki Tojo (1884-1945), quân phiệt hiếu chiến, Thủ tướng Nhật Bản 1941-1944, tội phạm chiến tranh, bị xử treo cổ năm 1948.
Ông đi lại luôn giữa Huế, Hà Nội, Sài Gòn. Ở Hà Nội, ông ngụ tại nhà luật sư Trần Văn Chương – sau này là bố vợ Ngô Đình Nhu, em ông. Ở Sài Gòn, ông quen bác sĩ Nguyễn Văn Nhã – người không che giấu lòng ngưỡng mộ đối với Chiêu Hòa Thiên hoàng(2), kế tục sự nghiệp vang dội của Minh Trị Thiên hoàng(3). Có thể nói là ông giao du rộng, được sự kính trọng của giới thượng lưu. Sống độc thân, nổi tiếng chính trực và thanh liêm, dám “bỏ ấn tể tướng” vào cái tuổi vừa hơn ba mươi, học rộng – ông thạo văn hóa Hán lẫn Tây phương – thuộc một đại thế gia: gia đình ông đi vào ca dao đương thời ở đất Thần Kinh với câu “Đày vua không Khả,”(4) ông hội đủ điều kiện để trở nên một chí sĩ mà tầng lớp quý tộc vẫn khao khát. Với tầng lớp này, lòng tin rạn nứt sau khi cụ Phan Sào Nam(5) bị giam lỏng, cụ Phan Tây Hồ(6) qua đời, cụ Huỳnh Thúc Kháng và ông Nguyễn An Ninh không phải là mẫu người mà họ kì vộng bởi tư tưởng dân chủ quá gần gũi với nhóm Mác-xít, trong khi Bùi Quang Chiêu, Lê Quang Liêm, Trần Văn Khá thân Pháp quá lộ liễu. Cho nên ông nổi bật như là một điềm báo trước. Sự úy kị đối với tín ngưỡng của ông được giải tỏa dễ dàng: không bao giờ ông chen Đức Chúa Trời vào các buổi trao đổi thời cuộc – nhiều người ngỡ ông theo đạo Phật, đạo Khổng hơn là đạo Cơ Đốc. Nhưng, ở Phát Diệm, Xã Đoài, việc ngoan đạo của ông và của một gia đình toàn tòng từ xa xưa lại là một ưu thế khác của ông: các cha cố rao giảng về ông một cách rộng rãi, nhất là khi anh ông thụ phong Giám mục. Thân hào đất Nghệ hỗ trợ ông đắc lực. Sau này, khi Ngô Đình Nhu vào đời, ông hưởng thêm sự ủng hộ của lớp trí thức trẻ, bạn của Nhu và vợ Nhu.
(2) Tức Nhật hoàng Showa Hirohito (1901-1989), trị vì Nhật Bản 1926-1989
(3) Tức Nhật hoàng Meiji Mutsuhito (1852-1912), trị vì Nhật Bản 1867-1912
(4) Ngô Đình Khả (1857-1923), phụ chánh đại thần triều Nguyễn, cha của anh em Diệm-Nhu, người phản đối việc Pháp đày vua Thành Thái năm 1907.
(5) Tức Phan Bội Châu
(6) Tức Phan Chu Trinh
Chiến tranh thế giới bắt đầu. Theo ông, đó là cơ hội. Ông nghiễm nhiên thành một chính khách, tên tuổi gắn liền với giải pháp A hay B nào đó. Nhật đổ bộ vào Đông Dương, ông được hỏi ý kiến, bí mật, tất nhiên. Những người bạn Pháp lại cho ông lời khuyên quý báu: chưa phải lúc.
Đầu năm 1945, ông có mặt ở Hà Nội, ung dung đi nghe Trần Văn Giáp diễn thuyết về đạo Phật tại viện bảo tàng Finot, đọ tin về Hội nghị Yalta, giữa một mùa rét chưa từng có: 4 độ. Ông đi vào Sài Gòn được ít hôm, Nhật đảo chính Pháp, giới thượng lưu rộn ràng hẳn. Tuy nhiên, tuyên cáo của hoàng đế khiến ông buồn cười: Bảo Đại mà “đích thân” cầm quyền thì vui thật!
Suốt ngày, khách khứa đầy nhà, đủ loại dự đoán, đủ loại ước mơ, đủ loại “đường lối.” Ai cũng tin là ông sắp được vời ra Huế - ông cũng tin chắc như vậy. Ông chờ đợi. Ông suy tính sẽ lập ra một nội các như thế nào, gồm những ai…
Đùng một cái, nội các do Trần Trọng Kim làm tổng lí ra đời! Ông bị bỏ quên. Bực tức, ông ngã bệnh, phải vào bệnh viện. Điều an ủi ông ít nhiều là Phạm Quỳnh không còn được trọng dụng và nghe đâu đã bị Trần Đình Nam, Tổng trưởng Nội vụ tống giam.
Nằm trên giường bệnh, qua báo chí và bạn bè, ông lần lần thấm thía ông không “lai kinh” là không ngoan. Nội các Trần Trọng Kim như một màn hài kịch – loại kịch dở. Sau này, ông được biết Bảo Đại từng đánh điện vời ông – bấy giờ có một giải pháp gọi là “giải pháp Ngô Đình Diệm”: ông lập nội các với một ít bộ, coi như lát đường để chờ thời cuộc ngã ngũ. Người Nhật ỉm bức điện đó. Nhật không thích một người biết tính toán như ông.
Về sau, ông cho rằng ông may - thanh danh ấy không bị hoen ố - ông suy nghĩ như vậy.
Song cái lo lắng ghê gớm lại là Việt Minh. Việt Minh lù lù, đâu cũng có. Một số thuộc giới thượng lưu cảm tình với Việt Minh. Không thể ở Sài Gòn được. Ông lên Đà Lạt.
Cách mạng tháng Tám nổ bùng. Cái mà ông ghét nhất đã xảy ra. Chế độ Dân chủ Cộng hòa thiết lập với lãnh tụ Hồ Chí Minh. Vua Bảo Đại thoái vị. Anh Khôi của ông bị xử tội chết. Ông bị bắt. Gần đây, thiên huyền thoại về ông được tô vẽ đầy những nét li kì, ông thích thú với mọi sự tâng bốc. Song, ông không dám quá trớn vì một điểm: ông sống sót là nhờ Cụ Hồ tha ông… Hú hồn, chính Phạm Quỳnh đã thế mạng ông! Tốt nhất là lờ đi vậy.
Năm 1947, ông trở lại Đà Lạt. Lúc bấy giờ gia đình Nhu ở đó. Pháp móc với ông, nhưng chưa phải “giải pháp Ngô Đình Diệm.” Vẫn là Bảo Đại. Người Pháp chưa hiểu rằng họ đã trễ tàu.
Linh mục Huệ, như đấng tiên tri Gabriel trông kinh thánh, với nhiều sáng kiến đã lôi ông ra khỏi sự lãng quên và đã định giá ông trên thị trường: đánh tiếng với người Mỹ. Rồi linh mục Cao Văn Luận đưa ông sâu vào vòng tay cơ quan tình báo Mỹ, bấy giờ chưa gọi là CIA mà OSS(7). Một linh mục khác, Emmanuel Jaques Houssa – người Bỉ, từng sống ở Phát Diệm từ 1939 đến 1945, rất quen ông – sửa soạn với chính giới Mỹ. Cao Văn Luận làm con thoi nối Đà Lạt – Ba Lê – Nữu Ước.
(7) Office of Strategic Services: Cơ quan Tình báo Chiến lược
Mọi sự đến năm 1950 đã khá rõ ràng: Pháp chẳng những không thể quét sạch Việt Minh trong vòng vài tuần lễ, thậm chí vài năm như Leclerc cam đoan mà đang tự hỏi: bao giờ thì bỏ cuộc? Sau trận đại bại trên biên giới Việt Trung, Pháp mất năm nghìn quân tinh nhuệ và hai đại tá Lepage và Charton – những kẻ cuồng tín nhất về một nước Pháp gì thì gì chứ không thể thua bọn “Annamít” đã suy sụp tinh thần. Ván bài tuy chưa kết thúc, song triển vọng thì bi thảm. Cho nên, ván bài khác được hối hả xếp đặt. Mượn cớ đi dự năm Thánh bổn mạng, ông sang Mỹ. Fishell, một trong những chỉ huy trung tâm tình báo Mỹ cùng với linh mục Houssa và Cao Văn Luận thu xếp cho ông vào dòng tu Maryknoll ở bang New Jersey. Giám đốc tu viện Keagan bị ông lừa: ông ta nghĩ rằng Diệm sẽ suốt đời làm tông đồ của Chúa bởi không ai trong tu viện cần mẫn hơn ông – năm giờ sáng