P3 - Chương 12
Mai Hữu Xuân vừa bực tức vừa lo lắng. Ông ta không hề được Phủ Tổng thống hỏi một tiếng về việc giữ an ninh theo chức trách của ông ta. Hội chợ Buôn Mê Thuột sắp khai mạc, Trần Kim Tuyến và Phạm Xuân Chiểu đều có mặt tại chỗ, còn ông, ông ru rú ở Sài Gòn.
“Tao đâu phải là thằng gác giang cho nhà bây!” - Xuân đay nghiến trong bụng. Tất nhiên, Thiếu tướng Mai Hữu Xuân là con người cực kì khôn ngoan. Người ta không gọi ông nghĩa là mức độ tin cậy chưa cao. Ông đã làm tất cả những gì có thể để chứng tỏ lòng trung thành tuyệt đối của ông với chế độ mới, kể cả sẵn sàng thủ tiêu những đồng ngũ ngày hôm qua của ông – những đồng ngũ rủi ro bị bác sĩ Tuyến lên danh sách. Có ít ra hai chục bức thư của vợ con loại nạn nhân kiểu đó xỉ vả ông. Còn bạn bè, hàng trăm cú điện thoại trách móc. Làm sao được? Ông cần sống, cần cầu vai lấp lánh thêm một ngôi sao cấp tướng nữa, cần chờ dịp phất cờ. Ông tin là ngày đó sẽ tới, nhất định tới. Không bỏ cái nhỏ thì khó mà đạt tới cái lớn. Đôi lúc ông tự cười: Savani, sĩ quan tình báo kiêm nhà văn, bạn của ông - thật ra là “sếp” của ông trước kia – bắt tay từ giã ông khi Pháp rút quân, bảo nhỏ một câu mà ông rất thích. Savani bảo: Ông Xuân, nếu cần có một biệt danh, thì biệt danh của ông là Mìn-nổ-chậm! Rồi Savani cười. Ông cũng cười. Chí của ông là vậy. Tất nhiên, ông không phải là loại mìn chống tăng thường. Ông là mìn tấn, đánh sụp cả một lâu đài...
Ông gườm hai đối thủ thôi: Ngô Đình Nhu và Nguyễn Thành Luân. Với Ngô Đình Nhu, ông biết rằng ông chỉ được dùng như một “ngọn giò lái” đá ngược vào các lực lượng thân Pháp. Nhu nắm mạng sống của ông như nắm những lằn chỉ tay của gã. Dùng ông là con đường ngắn nhất triệt tiêu mối nguy hiểm bước đầu khi gia đình họ Ngô giành được quyền bính. Tới một độ nào đó, ông giống như vỏ chanh; các biện pháp mà Nhu sẽ thực hiện với ông chẳng khác nào các biện pháp mà chính ông đã thực hiện với bao nhiêu kẻ - thực tế, có quá khứ y hệt ông, chỉ kém hơn ông tài luồn lách và hiểu biết những chuyện hậu trường, chuyện đi đêm. Ông dự kiến chi li mọi thứ. Phải tạo cái vẻ phục tùng nhà Ngô đến độ ai ai cũng chửi ông phản bội. Càng bị chửi, ông càng bám chắc cái phao. Mặt khác, phải nắm thật nhiều chủ bài – những chỗ nhược trí mạng của chế độ: ông không thiếu bản sao những bức thư tình nóng bỏng của Trần Lệ Xuân và các nhân vật nặng cân, kể luôn vài tấm ảnh. Ông có cả những tài liệu về sự trác táng của Ngô Đình Luyện, về hoạt động tuy mang áo tôn giáo song đích thị là kinh tài của giám mục, về các vụ buôn của bà Ngô Thị Hoàn tức Cả Lễ, về Ngô Đình Cẩn, Trần Trung Dung, về vợ của Nguyễn Hữu Châu – chị ruột Lệ Xuân…
Ông không quên la cà với tùy viên quân sự Mỹ, thiếu tá James Casey, nhưng chưa vồn vã. Để xem người Mỹ “biết người biết của” không.
Ông đã sẵn trong túi lá đơn gửi Tổng thống, một lần nữa xin cho ra đơn vị trực tiếp bình định các nơi. Trong thời buổi nầy – giáo phái như ngọn đèn dầu le lói, còn Việt Cộng đang mai phục – những chiến dịch càn quét chắc sẽ nâng nhanh địa vị ông hơn là quanh quẩn với chức giám đốc an ninh quân đội… Lần trước, Diệm chấp nhận cho ông điều khiển chiến dịch “Trương Tấn Bửu” bình định Đông Nam Bộ kéo dài ba tháng rưỡi từ giữa tháng 7-1956; kết quả dù được thổi phồng vẫn quá khiêm tốn.
Với Nguyễn Thành Luân, ông e dè không phải vì Luân được họ Ngô tin cậy, đầu che cái ô “con nuôi của giám mục,” được đại sứ Mỹ đặc biệt trọng thị. Ông đã so găng vài hiệp với Luân và tự thú mình chưa đủ bản lĩnh. Vả lại, ông hiểu biết Luân còn quá sơ sài. Mấy bẫy rập giương lên rồi sập xuống, chẳng thu được chút gì đáng kể. Khi nghe điện thoại của Tiểu Phụng hẹn Luân, ông khấp khởi. Ông không cần món quà của Tiểu Phụng định tặng Luân – chắc là bản danh sách điệp viên, một số tài liệu quan trọng nào đó – nhưng ông cần bắt quả tang Luân hành động lén lút, kiểu tình báo. Trong trường hợp đó, ông sẽ còng cổ Luân nộp cho Nhu, hoặc khống chế Luân. Đằng nào cũng có lợi. Thế mà, rốt lại, một thằng cha Hoa kiều vớ vẩn tên Lưu Kỳ Phong lạ hoắc thế mạng cho Luân và Tiểu Phụng cũng bị giết.
Ông chưa đưa nổi Luân vào tròng trong khi có vẻ Luân phát giác ở ông nhiều bí mật. Vụ ném lựu đạn đoàn Kim Thoa, vụ giết trung úy Minh, luôn vụ Tiểu Phụng, nhất là vụ Trịnh Minh Thế. Có lần, gặp ông, Luân hỏi:
- Thiếu tá Vọng, thiếu tá Hùng mạnh giỏi không?
Ông đã hớ hênh trả lời là mạnh. Đáng lí, phải giả bộ ngơ ngác. Dưới trướng ông đến hàng trăm thiếu tá, sao lại trả lời ngay.
Luân lại nói bâng quơ:
- Họ sài súng “mút” của Anh khá lắm!
Thiếu tá Vọng đã núp dưới biển dừa nước cạnh cầu Lăng Tô, dùng khẩu súng trường Anh hiệu Remington có máy ngắm khử Trịnh Minh Thế - chỉ bắn một phát.
Ông đã phản công:
- Tôi không biết tài súng trường của họ. Nhưng tôi biết tài bắn súng lục của ông!
Nói như vậy, ông ám chỉ Luân cũng có thể vấy vào một “xì căng đan.”
Luân cười rộ. Cô nhà báo Mỹ Fanfani – con quỷ cái nầy mê mệt thằng Luân – cười phụ họa. Và, ông phạm tiếp một sai lầm nghiêm trọng: ông im lặng, đỏ mặt...
“Phải cho thằng Luân đo ván!” – Ông thề với nghề nghiệp như vậy… Phải cho đo ván trước khi Lansdale hội đủ các dữ kiện về cái chết của Trịnh Minh Thế và rút ra kết luận.
Giết Trịnh Minh Thế, ông không chỉ đơn thuần làm theo khẩu lệnh của Nhu. Ông có tính toán riêng. Phải chăng đây là sự rạn nứt đầu tiên giữa anh em Diệm – Nhu với Mỹ? Thế có thể chưa phải là cái gì cả đối với họ Ngô và Mỹ, song Mỹ vỗ béo Thế và Nhu ra lệnh thủ tiêu Thế. Tốt lắm! Mỹ buộc phải suy nghĩ về mấy con ngựa đang kéo cỗ xe của họ ở Nam Việt. Bây giờ, đó là vết cào nhẹ trong mối quan hệ Mỹ - Ngô. Vài vết cào nữa sẽ thành vết thương tấy mủ… Cái quan trọng là đừng để lòi lưng ông – người trực tiếp chọn chỗ phục kích cho thiếu tá Hùng, thiếu tá Vọng. Trên đòn cân của Mỹ hiện thời, ông tự biết mình chỉ là chiếc lông so với tảng đá Ngô Đình Diệm
Ông đã từng nói xa nói gần cho Nhu hiểu là Luân nghi ông dính vào vụ Trịnh Minh Thế. Nghi ông tức là nghi Nhu. Nghe ông, Nhu phán một câu, ông lạnh xương sống:
- Ông kĩ sư nghi vì hành động ít nhiều có sơ hở. Ông kĩ sư nghi, nghĩa là Tổng thống nghi, đại sứ Mỹ Nghi. Chỉ còn cách xóa hết dấu vết…
Tốt nhất là im lặng và cho Luân đo ván… “Xóa hết dấu vết” đã có, nghĩa là xóa ông bằng cách nào đó…
Hội chợ Buôn Mê Thuột – một thứ “kẹc mết”(1) đấu xảo – mà lại được chăm sóc kĩ, quá kĩ. Trùm mật vụ Trần Kim Tuyến, trùm cảnh sát Phạm Xuân Chiểu, đích thân vợ chồng Nhu, luôn Luân và người yêu đều có mặt trên đó. Tất nhiên, Mai Hữu Xuân hiểu liền ý nghĩa của cái hội chợ ở nơi đèo heo hút gió kia.
(1) Kermesse: hội chợ - tiếng Pháp
Làm gì bây giờ? Thiếu tướng Mai Hữu Xuân đi lại cả tiếng đồng hồ trong phòng làm việc của ông. Lần lần, ông hình dung ra một chuỗi khả năng có thể xuất hiện: Fulro, giáo phái, Phòng nhì Pháp, Đại Việt, tàn quân Bình Xuyên, Cộng sản… hàng tá phe nhóm nuôi mối thù không đội trời chung với Diệm, chắc chẳng bỏ lỡ cơ hội. Diệm mà ngã xuống lúc nầy, cũng hay. Cộng sản chưa đủ mạnh, giáo phái sụp đổ, Pháp ra đi và đang vướng ở Bắc Phi. Mỹ, dứt khoát là Mỹ sẽ bỏ bàn cờ cũ, xếp lại bang cờ mới. Tại sao trong các quân cờ quan trọng cỡ xe pháo mà lại không có tên Mai Hữu Xuân, người đầy đủ kinh nghiệm trị an nội địa? Diệm mà ngã xuống, Nhu và Luân trừ phi trốn vào sứ quán Mỹ, khó thoát tay ông. Ngược lại, chính ông khám phá một âm mưu ám sát Tổng thống, đúng là sự kiện hấp dẫn. Tha hồ yêu sách, tha hồ vẽ rồng vẽ rắn. Tha hồ lái chính sự xứ nầy vào quỹ đạo mà ông và Savani từng vạch, từng chạm cốc, từng thề thốt…
Thiếu tướng bấm chuông. Thiếu tá Hùng – vẫn mấy sợi lông đen phe phẩy trên cằm – đứng nghiêm.
- Kêu luôn thiếu tá Vọng! Ta bàn công việc gấp…
*
Lần nầy, Ly Kai gặp Dương Tái Hưng trên tầng chót khách sạn Majestic. Dương Tái Hưng, trong bộ complet màu xanh nước biển, trẻ hẳn ra, không phảng phất một tí dáng dấp Hoa Kiều. Gặp Dương Tái Hưng, Ly Kai không được thoải mái lắm. Gã chưa tiến thêm một chút nào trong đòi hỏi của Dương Tái Hưng tìm hiểu “chỗ nhược” của Nguyễn Thành Luân. Tay kĩ sư nầy không uống rượu – uống khá khỏe song không nghiện – không gái. Còn tiền – do hai khoản trên – Ly Kai đoán chắc là không động tay va.
Con đường vòng qua Bá Thượng Đài và Lâm Sử coi mòi quá ngoằn ngoèo. Bá Thượng Đài, cả Diệu Thọ, Tào Phu, Tần Hoài, chẳng giúp ích gì cho gã. Ngay Lâm Sử, ông ta cốt khai thác Ly Kai, chớ tuyệt không môi giới cho Ly Kai tiếp cận Nguyễn Thành Luân. Có một lần, Lâm Sử bị Ly Kai nằn nì quá, tổ chức một buổi tiếp xúc với một người trong nhóm Giải Liên. Người đó được giới thiệu bí danh là Sáu Sơn. Còn tên thiệt, chính Lâm Sử tiết lộ: Nghị Lực – cán bộ nằm vùng của Việt Cộng, quê Bạc Liêu.
Buổi tiếp xúc diễn ra trong một căn phố lao động vùng Cầu Muối, có thể nói là một cú “nốc ao” đối với Ly Kai. Nghị Lực đón Ly Kai với vẻ lạnh nhạt và nghi kị. Tất nhiên, Lâm Sử giới thiệu Ly Kai trong một thân phận rất khả ái: Hoa kiều “khai minh.”(2) Thế mà Nghị Lực lại hỏi thẳng Ly Kai: định mở sòng bạc ở đâu? Tay nầy quả là đáo để. Ly Kai nói tiếng Việt, Nghị Lực đối đáp tiếng Việt. Ly Kai nói tiếng Quảng, Nghị Lực nói tiếng Quảng. Rồi tiếng Tiều, Hẹ, Phúc Kiến, Bắc Kinh…
(2) chữ của Trung Cộng, ý chỉ người Hoa “tiến bộ”.
Sau cùng, Ly Kai cố gắng ném quả bóng vào khung thành: “Ông quen với Nguyễn Thành Luân?”
Nghị Lực cười – nụ cười như đi guốc trong bụng Ly Kai:
- Đây là điều chính yếu phải không?
“Tỉu na má!” – Ly Kai chửi thề thầm. Khi gã chửi thề, dù là thầm, gã vẫn dùng tiếng Xán Thầu mẹ đẻ.
- Tại sao ông lại để ý một kĩ sư đang cộng tác với ông Nhu? Tôi có biết kĩ sư Luân lúc ông ấy làm tiểu đoàn trưởng. Một người kháng chiến. Và, từ sau đình chiến có nhiều biến đổi. Ông muốn tìm hiểu kĩ sư Luân về phương diện nào?
Ly Kai lúng túng.
- Tôi là một người Hoa đã đi kháng chiến. Nếu ông muốn chúng ta làm quen trong công việc cứu trợ đồng bào Hoa nghèo của chúng ta thì tôi sẵn sàng trao đổi với ông. Còn ông định lôi kéo tôi vào công việc khác, thì xin lỗi ông; lần gặp nay coi như lần chót. - Nghị Lực bảo.
- Ông Lâm Sử… - Ly Kai ấp úng.
- Tôi và Lâm Sử khác nhau!
Ly Kai chợt nhớ câu thần chú mà Dương Tái Hưng và Lâm Sử đã đọc với gã:
- Tổ quốc…
- Ông muốn nói cái gì về Tổ quốc? Nơi nuôi tôi lớn, cho tôi tấm lòng, đó không phải là một Tổ quốc nữa của tôi hay sao?
- Ông là người lai? - Ly Kai hỏi một câu ngớ ngẩn.
- Không, tôi không lai. – Nghị Lực trả lời rất rõ – Song dòng máu mà tôi mang có phần do hạt gạo Việt Nam. Và trên hết tôi có cái đầu để suy nghĩ và điều khiển cho hành động. Chứ không phải cái đầu đặc cứng…
Ly Kai ngán ngẩm. Gã vốn dốt