P1 - Chương 8
Trời còn mờ mờ, trăng chưa lặn, Luân, Quyến và Sa rời nhà Hai Sặt vào chợ Phụng Hiệp. Vợ chồng Hai Sặt, con Rô, sau bữa cơm mà họ ép bọn Luân ăn “bỏ bụng” tiễn khách xuống ghe. Ghe rời bến, họ vẫn còn đứng trông theo…
Qua một vạt đất hoang um tùm lau sậy – làn ranh phân chia vùng giải phóng và vùng tạm chiếm – bắt đầu ngoại vi thị trấn.
So với vùng giải phóng, nhà cửa ngoại vi thị trấn Phụng Hiệp xơ xác hơn nhiều. Hầu như không nhà nào lập vườn và hầu như nhà nào cũng che tạm bợ bằng mấy tấm tôn, mấy bẹ lá dừa. Tuy vậy, mỗi nhà đều có luống vạn thọ.
- Còn nửa con trăng nầy với một con trăng nữa là Tết.
Quyến nhìn luống vạn thọ rồi nói. Câu nói luyến tiếc của Quyến khuấy động tâm tư của Luân. Đúng rồi, năm nay, Luân sẽ phải ăn cái Tết đầu tiên xa chiến khu, xa đồng đội. Từ gần chục năm qua, cái Tết kháng chiến đã vào Luân như một thói quen dễ thương. Dù ở chiến trường nào – vùng tự do hay địch hậu – Tết đến với bao nhiêu rộn ràng: đánh vài trận “Tất Niên” cho ra đánh, hội nghị tổng kết, để còn sửa soạn đầu lân, tiết mục ca kịch vui với bà con. Đêm ba mươi, thế nào cũng có buổi đón Giao Thừa đọc thơ chúc Tết của Hồ Chủ tịch, ăn bánh tét, thịt kho dưa giá của Hội phụ nữ và hội mẹ, thức cho đến sáng. Sáng, chia nhau đi chúc Tết chòm xóm. Thế nào cũng nhậu “ba sợi” – “ba sợi” thôi, song không ít cậu ngủ li bì, quên trời quên đất. Nơi làm việc của ban chỉ huy và từng nhà dân mà bộ đội ở nhờ, thế nào cũng có cửa tam quan bằng lá dừa, có bình hoa vạn thọ, có cờ và ảnh Cụ Hồ. Vui nhất là đêm kịch. Đơn vị ít phụ nữ - vài cô y tá, chị nuôi rất ngại lên sân khấu – cho nên các cậu trai phải đóng hóa trang: độn ngực, tập đi yểu điệu… trừ giọng ồm ồm đực rựa không sao sửa nổi, báo hại người xem cười muốn đứt ruột, nhiều bà con vừa cười vừa lau nước mắt.
Ra Giêng, lại họp bàn kế hoạch tác chiến, luyện quân.
Nhịp độ đó đã thành bình thường trong Luân. Bây giờ anh như hẫng. Thật khó mà nghĩ đến một cái Tết không ló mặt ra ngoài, không chúc Tết và được chúc Tết – dẫu có chúc Tết cũng sẽ không phải là: năm mới mừng tuổi bà con, mong bà con đoàn kết, ủng hộ bộ đội, đẩy mạnh kháng chiến đến toàn thắng, theo lời dạy của Cụ Hồ và Chính phủ Trung ương.
Kháng chiến đã thắng lợi, nhưng Luân mất đi cái câu chúc tốt đẹp đầu năm đó.
Trời sáng dần. Trước trụ sở Ban liên hiệp đình chiến – ngôi nhà gạch nằm trên một trong bảy ngã đổ ra Phụng Hiệp – ngọn cờ đỏ sao vàng phẩy nhẹ trong gió sớm. Buổi tập thể dục sắp kết thúc. Các đồng chí thân yêu của Luân đang thở. Họ quay mặt về chiến khu, cúi đầu, ép hai cánh tay rồi mở rộng vòng tay, ưỡn ngực hít mạnh, theo hiệu lệnh điều khiển mà Luân rất quen thuộc.
Tam bản trôi chầm chậm. Luân không dám ngó ngay trụ sở - có thể có người quen Luân và với Luân, từ nay giấu kín niềm đam mê cũ là một kỉ luật. Anh biết mình không dễ dàng nhập thân vào lối sống mà mọi cái đều trái ngược với đạo lí anh hấp thu trong chín năm. Chỉ còn biết cố công. Ôi chao! Cái không khí trong lành mà anh đã hít, mỗi buổi sáng tập thể dục cùng đồng đội…
Anh nhìn Quyến, Sa: hai cậu đang hết sức căng thẳng.
Ngọn quốc kì in trên nước, Luân se sẽ đưa bàn tay xuống dòng kinh vuốt ve ngọn cờ. Trụ sở Ban liên hiệp đình chiến, ngọn quốc kì, tiếng điều khiển buổi tập thể dục và vùng tự do khu 9 cùng cái đêm chót ở nhà Hai Sặt lùi lại sau lưng anh…
*
Luân lên bờ, chợ Phụng Hiệp ồn ào hơn tưởng tượng của anh.
Tiếng xe rồ máy, tiếng lơ mời khách, tiếng rao hàng và tiếng chửi tục tằn dậy cả một góc trời. Chỉ cách có một con kinh, Luân như bước sang một thế giới xa lạ hẳn.
Sau khi kín đáo ngoảnh lại nhìn lần nữa trụ sở Ban liên hiệp và ngọn cờ Tổ quốc, Luân lũi theo sóng người đi sâu vào chợ. Chiếc tam bản của Quyến, Sa lao lách giữa đoàn xuồng ghe chen chúc xuôi luôn về hướng sông lớn. Mỗi cậu sẽ bằng cách riêng, gặp Luân sau này…
Đã lâu rồi, Luân mới đi lại một mình. Tựa như anh đang đột nhập đồn giặc. Ngay cả khi trinh sát đồn giặc, Luân cũng không đơn độc như lần này.
Luân chợt thấy lành lạnh nơi xương sống. Quanh anh, những cái nhìn chẳng giống cái mà anh thường gặp mươi phút trước đây. Tất cả đều dữ dằn.
Sau cùng, Luân đến bến xe:
- Thầy đi Cần Thơ hả?
Cũng rất lâu, Luân mới nghe lại tiếng “thầy” lãng xẹt nầy. Luân chợt nhớ rằng anh đã lọt vào một xã hội mà người ta quen gọi với Ngài, cụ, ông chủ, thầy, cậu… Sẽ chỉ còn có thể gọi nhau “đồng chí” khi thật vắng và phải gọi thật khẽ…
Luân không mang xách gì theo mình. Người lơ xe lôi xển anh và tống anh lên chiếc xe đò còn trống. Luân thấy các lơ xe, bất kể hành khách đồng ý hay không, vác túi, thúng, bao… của họ ném bừa lên mui. Cái tiếp xúc khởi điểm báo với Luân sự lộn ẩu của một xã hội mà Luân phải vùng vẫy trong đó.
Chưa hết, Luân chưa yên chỗ thì hàng chục bàn tay chìa qua cửa: mía ghim, dưa hấu, nem, thuốc lá, giấy số, báo…
Luân mua bao thuốc lá Ruby Queen, diêm quẹt và tờ Tiếng Chuông.
Tờ báo ra ngày thứ Sáu, 10-12-1954, chạy tít suốt tám cột: “Giáo sư Ngô Ngọc Đối từ chức Tổng ủy tị nạn, Bác sĩ Thú y Phạm Văn Huyến thay… Hai tựa khác cũng to không kém: Bộ trưởng Phạm Duy Khiêm được bổ Cao ủy Việt Nam tại Pháp – Thiếu tướng Nguyễn Văn Vĩ được cử làm Tổng thanh tra quân đội thay thế tướng 4 sao Alessandri…”
Luân thầm nghĩ: Cả ba Phạm Văn Huyến, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Văn Vĩ, thân Pháp nổi tiếng, chỉ là chiếc cầu tạm mà Diệm dùng trong buổi giao thời.
Xe chờ khách khá lâu, Luân đọc hết trang tin tức, bắt đầu đọc bài xã luận, kí tên Khải Minh. Khải Minh là ai, Luân đã biết, đã gặp. Bài xã luận nhắc đến cuộc biểu tình hoan hô hòa bình và bị trấn áp đẫm máu – việc xảy ra cách nay đã hơn năm tháng, liền sau khi hiệp định Genève kí kết. Nhắc lại sự việc đó, bài xã luận khôn khéo giới thiệu bản tuyên bố của Ủy ban Bảo vệ Hòa bình, đứng đầu là các ông Kĩ sư Lưu Văn Lang, Giám đốc Pháp Hoa ngân hàng Michel Nguyễn Văn Vĩ, Luật sư Trịnh Đình Thảo, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Bác sĩ Dược khoa Trần Kim Quan, Giáo sư Dương Trung Tín và hơn ba trăm trí thức, nhân sĩ khác.
Luân lật trang trong, bây giờ anh không còn đọc được nữa. Tình hình qua vài mẩu tin đã hiện rõ thực chất: Cuộc đấu tranh vì hòa bình, thống nhất đất nước của nhân dân vừa chớm dậy, đã nhuốm máu ngay tức khắc.
Mải mê suy nghĩ, anh không chú ý người ngồi bên cạnh đang ghé mắt cùng đọc báo với anh. Khi Luân chợt nhìn ra – ông khách để bộ râu cá chốt, đeo kính đen to gọng, người gầy gầy – anh trao luôn tờ báo cho ông ta. Ông ta cám ơn và cắm cúi đọc.
“Một mật thám?” Luân tự hỏi. Rất có thể vì đôi kiếng – gọng to – màu đen giúp đắc lực cho những cái nhìn rình rập.
Đằng sau Luân, hình như cũng có một số tay không phải dân làm ăn. Ngay người tài xế - ông ta lúc nào cũng láo liên. Và tay lơ xe, vẻ mặt thật đáng nghi ngờ.
Xe bắt đầu chạy. Ông khách trả tờ báo cho Luân, nhồi thuốc vào ống tẩu. Khói lên bựng bựng. Hình như mắt ông ta không rời Luân.
Đường Phụng Hiệp – Cần Thơ xấu, chiếc xe đò hầm hừ vượt qua những đoạn bị phá hoại. Luân thấy vui vui: Từ phía đối ngược lại, anh quan sát kĩ hơn tác dụng cả những đêm bộ đội cùng dân hì hục đào, cuốc…
Xe qua đồn Nhà Thờ. Cây thập ác gục xuống, cái đồn chỉ còn bờ tường đá cháy nham nhở. Luân cố hình dung những đêm đánh hệ thống đồn bót dọc lộ nầy, anh long theo con rạch nào.
Xe đỗ lại trước cây chắn một trạm cảnh sát. Tất cả hành khách đều phải xuống xe. Cảnh sát khám kĩ hành lí của từng người. Từng người được mời vào trạm.
- Ông có giấy kiểm tra không?
Người khách đeo kiếng to hỏi Luân. Luân có. Tất nhiên, đó là thẻ kiểm tra giả, do nhà in Trần Phú ăn cắp kiểu, in lại. Nếu bằng mắt thường, cảnh sát không tài nào phát hiện chỗ giả của thẻ kiểm tra. Còn dựa vào máy, vấn đề sẽ khác. Luân tin chắc là trạm cảnh sát dọc đường không có máy. Nhưng cái lão đeo kiếng nầy, tại sao lại hỏi anh?
Quả như Luân đoán, viên trưởng trạm không xét nét thẻ kiểm tra của Luân. Song hắn nhìn Luân từ đầu đến chân:
- Ông đi đâu? - Viên trưởng trạm hỏi.
Luân chưa nói gì thì người khách đeo kiếng gọng to chìa giấy của ông.
- Ông Sáu khỏi đưa giấy mà!
Viên trưởng trạm trả giấy cho ông ta, cười vui vẻ.
“Tụi nó với nhau! Hẳn rồi đây!” Luân nghĩ.
- Vậy thì tôi với anh bạn tôi đây đi nghe…
Ông ta kéo tay Luân. Luân hơi lượng sượng một chút.
- Tụi này dọ giá cá đồng ở Phụng Hiệp, còn lên dọ trên Long Xuyên…
Ông ta bãi buôi như Luân cùng đi với ông.
Viên trạm trưởng đẩy đưa:
- Ủa? Ông Hai đây đi chung với ông Sáu hả…
Ông khách rút gói thuốc mời viên trạm trưởng và làm như vô tình, ông bỏ quên gói thuốc trên bàn.
Tự nhiên, Luân thấy ông khách có một chút gì khả nghi. Mọi người trên xe đều đột ngột trở nên hiền lành.
*
Luân sắp đổi xe đi Sài Gòn thì một chiếc Citroën đến hối hả đỗ lại bên xe Cần Thơ. Trên xe bước xuống một người nhỏ nhắn đeo kiếng đen, bận áo chùng đen, đeo tượng Chúa – một linh mục. Ông ta nôn nả chạy hỏi chiếc xe từ Phụng Hiệp lên mà Luân vừa đi – đó là chiếc xe thơ chạy sớm nhất.
Luân linh cảm là ông ta tìm Luân.
Ông khách đeo kiếng gọng to – viên trạm trưởng cảnh sát kêu bằng ông Sáu - cũng đổi xe đi Sài Gòn. Ông đứng chung với Luân ở bàn bán