Luân chờ Nhu hỏi mình, nhưng Nhu lại bóp trán.
- Thưa Tổng thống, thưa Đức cha... Nhu nói mà không ngó ai cả - Chúng ta cần hết sức tỉnh táo. Cái gì ở đằng sau vụ tự thiêu và nhất là cái gì ở đằng trước nó? Ta có thể nào xét vụ tự thiêu vừa rồi tách ra khỏi sự cố ngày 11-11-1960, sự cố tháng 27-2-1962 hay không? Tôi không tin là Phật giáo đủ sức khuấy động đến mức thành áp lực đối với Chính phủ.
Nhu móc trong túi ra một bức thư:
- Tôi xin phép Tổng thống đọc bức thư của Cha Cao Văn Luận từ Mỹ gửi về, chỉ đọc những đoạn cần thiết thôi. “Ngày 16-5, tôi lên máy bay đi Mỹ với Âu Ngọc Hồ và trạm đầu tiên tôi đáp xuống là San Francisco. Tôi muốn nhắc lại một chút, ngày 14-5, tôi tham dự lễ đặt viên đá đầu tiên xây cất trường Đại học Sư phạm ở Thủ Đức, cùng với Tổng thống. Đại sứ Nolting hỏi tôi về tình hình ở Huế và tôi trả lời rằng tình hình sở dĩ gay cấn cũng có phần lỗi của Chính phủ, chẳng hạn Chính phủ cấm treo cờ đúng ngày lễ Phật đản trong khi các cuộc lễ bên Công giáo thì được tự do treo cờ. Ngày mười lăm, Tổng thống gặp tôi và đã khiển trách tôi là đã chỉ trích Chính phủ trước một đại sứ ngoại quốc. Tôi đã thưa với Tổng thống là tôi chỉ đưa ra một vài giải thích và thật tình tôi xem hành động của Chính phủ ở Huế là bất lợi. Nhân tiện, tôi cũng bộc bạch với Tổng thống, đại ý: số giáo dân Thiên Chúa ở trong Nam chỉ vài trăm nghìn, nhờ phong trào di cư, tổng cộng ngót một triệu, tỉ lệ đó vẫn là thấp so với toàn dân mà Tổng thống và các chức vụ lớn trong chính quyền đều do người Công giáo đảm trách. Dù không có sự thiên vị nào đi nữa, mà chỉ dựa vào tài năng thì bên ngoài, người ta cũng có thể nói rằng Tổng thống thiên vị Công giáo và bạc đãi các tôn giáo khác. Mặt khác, ai cũng thấy từ khi Cụ cầm quyền thì nhà thờ mọc lên khắp nơi, các nhà thờ bị phá hủy trong chiến tranh đều đã được tái thiết gần hết, cả những nơi không có bao nhiêu giáo dân cũng có nhà thờ đồ sộ. Trước đó nữa, tôi yết kiến Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, Ngài chia sẻ với tôi những lo âu tương tự. Nhưng Đức cha Ngô Đình Thục thì lại bảo tôi: Cha cứ yên tâm, các phong trào chống đối của dân bất quá như ngọn lửa rơm bùng lên một chốc rồi tắt ngay, có chi phải sợ.
Những điều tôi băn khoăn được xác nhận ngay tại San Francisco. Ông chủ tịch tổ chức Asia Foundation vốn thiện cảm với Việt Nam Cộng hòa từ lâu, trong bữa cơm thân mật đã nói nỗi lo lắng của ông với tình hình Huế và Sài Gòn. Từ San Francisco tôi đến Hoa Thịnh Đốn. Đại sứ Trần Văn Chương đón tôi tại phi trường và cùng ngồi xe với tôi về tòa đại sứ, ông Trần Văn Chương hỏi qua về tình hình trong nước và báo cho tôi biết những khó khăn mà đại sứ Việt Nam đang gặp phải ở Mỹ. Đại sứ hàm ý trách cứ tôi đã không dùng ảnh hưởng của mình tác động với Tổng thống và khi biết rằng quan điểm của tôi không được Tổng thống nghe theo thì đại sứ thở dài. Nhân vật Mỹ đầu tiên tôi gặp là Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, tiểu bang Montana. Ông Mansfield là người rất có thế lực thuộc Đảng Dân chủ cầm quyền, ông lo lắng cho chế độ của Tổng thống ta khó qua được cơn sóng gió. Ông nói rõ dư luận Mỹ trước năm 1960 rất có thiện cảm với Tổng thống ta. Nhưng sau cuộc bầu cử Tổng thống ngày 9-4-1961, báo chí Mỹ bắt đầu chỉ trích chế độ Việt Nam Cộng hòa và cũng bắt đầu dùng danh từ “Nhà độc tài” để mô tả Tổng thống. Ông Mansfield cho rằng cuộc bầu cử đó là “gian lận” - gian lận không cần thiết vì uy tín của Tổng thống trong nước đảm bảo cho Tổng thống đắc cử dễ dàng. Thượng nghị sĩ Mansfield cho tôi biết rằng hiện nay chẳng những dư luận báo chí Mỹ mà phần lớn các nhân vật trong Chính phủ Mỹ đều cho rằng chế độ Việt Nam Cộng hòa là gia đình trị, Công giáo trị, không đoàn kết được toàn dân, đẩy những kẻ đối lập quốc gia đến bước đường cùng phải chống đối bằng bạo động, do đó không thể thắng được Cộng sản. Chính phủ Mỹ cũng như dân chúng Mỹ hết sức lo lắng và thất vọng. Ông khuyên tôi nên trình bày lại với Tổng thống hiểu chiều hướng của dư luận Mỹ, và nếu có thể, nên giúp Tổng thống thay đổi đường lối, nhân sự thì mới được sự ủng hộ của Mỹ, bằng không rất có thể Mỹ sẽ bỏ rơi Tổng thống, nếu không phải là bỏ rơi Việt Nam.
Tôi cố gắng biện hộ cho Tổng thống, trả lời rằng theo chỗ tôi thấy thì không có nạn cuồng tín tôn giáo tại Việt Nam lúc này, và cũng không có sự xung đột tôn giáo nào giữa Phật giáo - Công giáo. Có thể có những mâu thuẫn hiềm khích giữa chính quyền và Phật giáo.
Tổng thống không mấy tin tưởng Phật giáo và Phật tử tích cực chống Cộng cho nên dè dặt đối với Phật giáo. Tôi cũng trình bày về chuyện cấm treo cờ, biến cố ở Huế, vừa đưa ra lối giải thích cùng quan điểm của tôi. Những giải thích và biện hộ của tôi xem chừng không đủ sức thuyết phục được Thượng nghị sĩ Mansfield.
Trước khi chia tay, Thượng nghị sĩ Mansfield nhắc nhở lần nữa rằng nếu Tổng thống không có những thay đổi chính trị sâu rộng, nhằm đưa ra một chế độ dân chủ thật sự kết hợp nhiều thành phần chính trị dị biệt, thì Chính phủ Mỹ cũng như dân chúng Mỹ không thể tiếp tục ủng hộ Tổng thống lâu hơn được nữa.
Lúc bấy giờ Đảng Dân chủ của Tổng thống Kennedy đang nắm quyền và ông Mansfield là một lãnh tụ có nhiều uy tín của đảng này. Lập trường cũng như ý kiến của ông có thể được coi như lập trường không chính thức của đảng và Chính phủ dân chủ.
Do đó những lời ông Mansfield nói ra làm tôi lo lắng nhiều lắm. Tôi có cảm tưởng là người Mỹ đã hết tin ở Tổng thống ta và đang nghĩ đến một thay đổi lớn lao, không phải chỉ là thay đổi nhân sự hay chính sách.
Tôi muốn biết thêm quan điểm của Đảng Cộng hòa đối lập, do đó tôi thu xếp gặp Thượng nghị sĩ Dirksen, một lãnh tụ Cộng hòa lão thành. Ông Dirksen cũng cho tôi biết những ý kiến tương tự như ông Mansfield, nói rằng dân chúng Mỹ, các chính sách Mỹ không phân biệt Cộng hòa hay Dân chủ đều tỏ ý thất vọng với chế độ Tổng thống, và coi như sự ủng hộ của Mỹ đối với Tổng thống nên được chấm dứt càng sớm càng tốt.
Báo chí Mỹ có vẻ đã thổi phồng những xung đột giữa Chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Phật giáo với một dụng ý nào đó tôi không hiểu rõ lúc bấy giờ.
Trong lúc tôi đang ở Hoa Thịnh Đốn, thì có tin về những cuộc lễ cầu siêu cho các nạn nhân trong vụ đổ máu tại Đài phát thanh Huế và lễ cầu siêu đã biến thành biểu tình ở Huế và Sài Gòn, ngày 30-5, báo chí Mỹ đăng những tin tức về những hành động đàn áp Phật giáo, như quân đội hay các lực lượng an ninh canh gác các chùa ở Huế, cúp điện trong khu chùa Từ Đàm.
Trong thời gian này, tôi gặp ông Robert Kennedy, bào đệ Tổng thống Kennedy, hiện là Bộ trưởng Tư pháp; ông Kennedy chỉ trích những hành động độc tài đàn áp đối lập, kì thị tôn giáo của Tổng thống Diệm. Ông nói rằng nếu tình trạng này không thay đổi, thì Chính phủ Mỹ không thể tiếp tục ủng hộ Tổng thống Diệm được nữa, vì dư luận dân chúng và Quốc hội Mỹ sẽ làm áp lực buộc Chính phủ Mỹ bỏ rơi Tổng thống Diệm, hoặc bỏ rơi hẳn Việt Nam.
Trong cuộc họp báo ngày 22-5 về Việt Nam, Tổng thống Kennedy, đã có những lời lẽ chỉ trích Chính phủ của Tổng thống Diệm, và một câu nói của ông như một lời giận dỗi: Mỹ sẽ rút hết quân đội và chấm dứt viện trợ cho Việt Nam bất cứ lúc nào Chính phủ Việt Nam yêu cầu. Trả lời cho báo chí, ông ngụ ý là Việt Nam muốn chiến thắng Cộng sản, thì cần có những thay đổi chính trị sâu rộng, từ căn bản.
Trong cuộc gặp gỡ với Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy, tôi được nghe ông nhắc lại những luận điệu này, và ông nói rõ hơn là Tổng thống Diệm phải mở rộng Chính phủ, lập Thủ tướng, tăng quyền cho các Bộ trưởng, kêu gọi các thành phần chính trị đối lập tham gia tân Chính phủ, chấm dứt những sự bắt bớ đàn áp vì lí do chính trị hay tôn giáo.
Giọng ông có vẻ gay gắt, khi nhắc đến những tin tức quanh việc đàn áp Phật giáo. Ông châm biếm rằng không nên vì cái chuyện cờ quạt mà làm mất lòng 80% dân chúng Việt Nam. Ông đề cập đến ông bà Nhu và tuy ông không nói rõ, song ngụ ý rằng cách hay nhất để xoa dịu dư luận Việt Nam cũng như Mỹ, là Tổng thống nên cho các ông Nhu, ông Cẩn và bà Nhu rời khỏi chính trường trong ít lâu, hay đi du lịch thế giới với tư cách cá nhân. Đến đây thì tôi không thể nghi ngờ gì được nữa. Tôi hiểu ảnh hưởng của ông Robert Kennedy với Tổng thống Kennedy. Vậy quan điểm của ông em cũng có thể được coi như quan điểm của ông anh.
Mặc dù ông Robert Kennedy không nói ra, nhưng tôi hiểu ý ông ta muốn dành cho Tổng thống Diệm một cơ hội cuối cùng, muốn tôi khuyên Tổng thống Diệm nên cải tổ chính trị sâu rộng để tránh khỏi bị Mỹ bỏ rơi.
Đến nơi nào tôi cũng được nghe những dư luận tương tự. Những sinh viên Việt Nam mà tôi gặp ở các nơi cũng tỏ vẻ bất mãn với Tổng thống Diệm, có lẽ vì bị ảnh hưởng của dư luận Mỹ nhiều hơn là do chính kiến của họ. Dĩ nhiên là tôi cố gắng bênh vực Tổng thống Diệm, nhưng tôi chẳng thuyết phục được ai cả...”
Không khí phòng họp lặng như tờ, cái biến đổi duy nhất là sắc mặt của từng người. Người thay đổi sắc mặt nhanh nhất là Lệ Xuân và người hầu như không thay đổi là Nhu. Luân cố gắng chọn ình một số cử chỉ thích hợp. Thật ra, anh quá cẩn thận. Hầu như chẳng ai để ý đến anh. Những người như Trần Kim Tuyến, Nguyễn Văn Y có mỗi bận tâm riêng. Bức thư của linh mục Cao Văn Luận thật tàn nhẫn. Và, Ngô Đình Nhu còn tàn nhẫn hơn:
- Chưa hết! Thư của linh mục Luận còn một đoạn, tôi muốn Tổng thống, Đức cha và mọi người biết. Tôi xin đọc tiếp: “Tôi lên Nữu Ước và gặp một chuyện bất ngờ đau lòng. Giáo sư Buttinger, trước là Chủ tịch Hội New Land Foundtion(1) và bây giờ là Chủ tịch Hội “Những người Mỹ bạn Việt Nam” tỏ ra chán nản thất vọng về Việt Nam, về Tổng thống của ta và không còn sốt sắng giúp đỡ cho ta như trước nữa. Giáo sư Buttingger gợi ý ta nên thay đổi Hiến pháp, bớt quyền Tổng thống, chỉ định Thủ tướng và cho các Tổng Bộ trưởng có thực quyền gồm những nhà chính trị có uy tín và tốt nhất nên mời các chính sách đối lập tham gia tân Chính phủ. Giáo sư Buttinger nhấn mạnh với tôi rằng Chính phủ Việt Nam hãy chấm dứt cho được sự kì thị đối với Phật giáo.
(1) Xây dựng vùng đất mới.
Cũng tại Nữu Ước, gặp ông Fishell từ Việt Nam sang có lẽ do một công cán đặc biệt nào đó. Ông rời Việt Nam sau tôi mấy hôm và có nhiều tình hình hơn tôi, tất nhiên là tình hình không mấy lành mạnh đối với chúng ta. Ông Fishell không giấu giếm với tôi rằng ông là một trong những người lãnh đạo cấp cao của Trung ương tình báo Mỹ. Từ Michigan, ông Fishell hấp tấp tìm tôi ở Nữu Ước bằng một chuyến bay riêng và chúng tôi nói chuyện từ mười bốn giờ đến hai mươi tư giờ. Ông Fishell nói toạc với tôi rằng, “nếu Tổng thống Diệm không chịu thay đổi đường lối chính trị và cải tổ nội các, thì nội trong năm 1963 này, Mỹ sẽ tìm cách loại bỏ Tổng thống Diệm ra khỏi sân khấu chính trị bằng nhiều biện pháp, mà không loại trừ biện pháp xóa ông Diệm về mặt thể chất...”
- Quá quắt lắm! - Diệm giận dữ đấm tay lên bàn - Tôi không phải là bù nhìn, không phải là tôi tớ của Mỹ. Việt Nam Cộng hòa không phải là một bang của Mỹ... Chú Nhu giao thư