P7 - Chương 5
Cuộc họp tuyệt mật của số sĩ quan cấp tướng mà Saroyan báo với Luân, về phía Mỹ không có James Casey. Lí do là đại sứ Nolting không tán thành cuộc họp này, ông ta không muốn liên can quá lộ liễu đến một âm mưu chống lại Tổng thống Ngô Đình Diệm. Thâm tâm Nolting chưa tán thành quan điểm loại Diệm vào lúc này - mối quan hệ nhân ngãi với Lệ Xuân giữ một tỉ lệ nào đó, tất nhiên, trong thái độ do dự này, đồng thời ông ta lại làm mọi cái có thể làm để cho việc loại Diệm chín muồi hơn mà vẫn giữ được tiếng là kẻ hết lòng ủng hộ Diệm. Fishell và Katterburg, với danh nghĩa những người bạn của các tướng lĩnh Việt Nam đến góp ý kiến về thời cuộc, thật ra là tác giả kiêm đạo diễn của vở kịch lớn được thai nghén rồi soạn thảo từ lâu, với những phân đoạn kĩ thuật chi tiết, chia thành từng trường đoạn, thậm chí với một bảng bố trí vai diễn - có vai chính và có vai phụ.
Về phía Việt Nam, có các tướng Mai Hữu Xuân, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, và hai đại tá - Nguyễn Hữu Có và Đỗ Mậu - có vẻ như Lê Văn Kim hoặc Trần Văn Đôn khởi xướng cuộc họp tạo phản này, nhưng, trước khi khai mạc, Katterburg rầm rì rất lâu với Đỗ Mậu, còn Fishell thì trao đổi riêng với tướng Xuân.
Nơi họp là nhà riêng của đại tá Có - một bữa tiệc thịt rừng vào chiều thứ Bảy, gồm những người bạn thân Việt và Mỹ.
Ngay những người dự họp đều không biết một chi tiết khá thú vị: sau khi nhà sư Thích Quảng Đức tự thiêu, Fishell đã bí mật gặp John Hing; còn John Hing, để chuẩn bị gặp Fishell, đã làm việc mấy tiếng đồng hồ liền với Lâm Sử có thể tóm gọn như sau: Trung Cộng dùng ảnh hưởng của mình để hạn chế tối đa mức hoạt động của Việt Cộng một khi xảy ra biến động có tầm cỡ quốc gia ở Sài Gòn. Lâm Sử thừa biết cái “biến động tầm cỡ quốc gia” ấy là gì, tuy nhiên anh ta đắn đo về lời cam kết. Lâm Sử tự đánh giá anh ta không có khả năng làm việc đó một cách trực tiếp. Bề ngoài, Lâm Sử phải tỏ rõ cho Việt Cộng thấy Bắc Kinh nhiệt liệt ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng ở miền Nam Việt Nam. Anh ta có thể xin gặp Khu ủy Cộng sản khu Sài Gòn - Gia Định, thậm chí có thể xin gặp Trung ương Cục miền Nam nhưng sẽ chẳng ăn thua nếu anh ta lại đưa ra đề nghị Việt Cộng đừng lợi dụng thời cơ rối loạn ở Sài Gòn để đánh rã quốc sách Ấp chiến lược và đánh rã quân đội Sài Gòn. Một đề nghị như thế chẳng khớp chút nào với khẩu hiệu mà đài Bắc Kinh đang ra rả suốt ngày. Lâm Sử dễ dàng hẹn với Nghị Lực, một cán bộ lãnh đạo các tổ chức lao động và học sinh người Hoa ở thành phố thuộc Khu ủy Cộng sản Việt Nam. Cũng vậy thôi, Nghị Lực là một người trọng nguyên tắc, rất có kinh nghiệm chính trị, đôi khi đề nghị của Lâm Sử lại cung cấp cho Nghị Lực cơ sở để phản ánh về cơ quan lãnh đạo cấp cao của Việt Cộng và kết quả sẽ ngược hẳn ý muốn của Lâm Sử. Hơn nữa, gần đây mối quan hệ giữa nhóm Lâm Sử và nhóm Nghị Lực bắt đầu có những biểu hiện mâu thuẫn. Mâu thuẫn lớn xoay quanh một loạt quan điểm. Từ lâu rồi, Lâm Sử bảo vệ phương châm mà anh ta cho là “nguyên lí của chủ nghĩa Mác ở châu Á” - lực lượng cách mạng Nam Việt Nam phải trường kì mai phục, xúc tích lực lượng, chờ đợi thời cơ, dùng nông thôn bao vây thành thị, ở nông thôn thì cơ bản là tác chiến du kích và phòng ngự, không cần thiết xây dựng lực lượng chủ lực quá cấp đại đội. Diễn tiến của tình hình chung ở Nam Việt Nam từng ngày một chẳng những đính chính mà còn phủ định cái nguyên lí kia - cái nguyên lí đã đưa phong trào cách mạng một loạt các nước Đông Nam Á vào chỗ khó khăn nghiêm trọng. Mâu thuẫn cụ thể giữa hai nhóm xuất phát từ đối tượng mà hai nhóm phụ trách.
Xét về một nghĩa nào, mâu thuẫn đó thật sự gay gắt. Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm người Hoa thuộc tầng lớp tư sản mà số không nhỏ là tư sản mại bản. Do vấn đề được đổi quốc tịch, số tư sản người Hoa đã tham gia chính quyền ở nhiều dạng và nhiều mức, giữ vị trí then chốt trong một số ngành kinh tế như tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, thương nghiệp. Nghị định cấm mười một nghề của Ngô Đình Diệm thực tế bị vô hiệu hóa bởi vì tổng đại lí mua bán sắt thép không phải là Pô Xường Thài mà là Bá Thượng Đài. Ở đây, nảy sinh một tranh chấp tất yếu giữa một bên là những ông chủ - tất cả đều vừa giữ quan hệ tốt với sứ quán Đài Loan, vừa giữ quan hệ bí mật với nhóm Lâm Sử - và một bên là những người Hoa lao động, mang quốc tịch Việt Nan hay theo quy chế ngoại kiều. Với số lao động này, nghị định cấm mười một nghề vẫn giữ nguyên hiệu lực. Trong vòng vài năm nay, nhiều cuộc đấu tranh nổ ra giữa chủ người Hoa và lao động cũng người Hoa. Mỗi lần nhóm Lâm Sử gặp nhóm Nghị Lực, cuộc tranh luận không còn dừng ở ngang các lời lẽ hữu hảo chung chung, ủng hộ lẫn nhau chung chung, mà thật sự là cuộc đối đầu giữa hai thế lực phản ánh vị trí xã hội đối lập mà hai nhóm đại diện. Lúc đầu, nhóm Nghị Lực đề nghị nhóm Lâm Sử hướng dẫn các chủ nhân người Hoa giải quyết thỏa đáng yêu cầu của những người làm thuê Hoa và Việt trong một số xí nghiệp, tiệm buôn nhất định. Thường thường nhóm Lâm Sử né tránh bằng cách giảng giải tràng giang đại hải về sách lược đối với Hoa kiều tư sản ở Đông Nam Á. Sau này, nhóm Nghị Lực đặt thẳng các yêu cầu và nói rõ vấn đề mà họ quan tâm là lợi ích của người Hoa nghèo trong cộng đồng Hoa - Việt ở miền Nam và ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Họ không có trách nhiệm gì đối với chính sách Hoa kiều của Bắc Kinh. Có thể nói được rằng, quan hệ của hai nhóm đang khá căng thẳng. Gần đây nhất, nhóm Nghị Lực đưa ra một loạt yêu sách về cải thiện điều kiện làm việc và lương bổng của công nhân các hãng dệt lớn nhất thành phố như hàng Vimytex và Vinatexco. Cả hai hãng gồm đến hơn một vạn công nhân, phần lớn là thiếu nữ người Hoa và cả hai hãng đều tồn tại dưới dạng tổ hợp Việt - Mỹ, nên hiểu Việt là những tư sản người Hoa đổi quốc tịch Việt Nam.
Một việc khác cũng không kém phức tạp. Nhóm Lâm Sử phát hành tờ tin lưu hành trong giới học sinh - là khu vực theo thỏa thuận giữa hai đảng, thuộc phần quản lí của nhóm Nghị Lực. Tờ tin mang tên “Diện hướng Tổ Quốc,” đăng tải các bài nói về công xã nhân dân, về bước “đại nhảy vọt” và các câu của “người cầm lái vĩ đại” được thần chú hoá, Nghị Lực đã trực tiếp phản đối việc làm này, coi như là sự can thiệp vào nội bộ Việt Nam và trái ngược với những điều đôi bên đã giao ước. Thế của nhóm Nghị Lực ngày một lớn do phong trào của người Hoa kết hợp với phong trào của người Việt trong xí nghiệp và ở trường học phát triển mạnh, được cuộc chiến tranh giải phóng ở nông thôn và các hoạt động vũ trang ở đô thị hậu thuẫn. Nhóm Lâm Sử hết rơi vào chỗ lúng túng này đến chỗ lúng túng khác bởi thiếu nhất quán trong lập luận của họ. Lâm Sử đã nhiều lần lên Nam Vang gặp đại sứ Trung Cộng xin chỉ thị. Liêu Thừa Chí, người cầm đầu Vụ Hoa kiều của Bắc Kinh đã điện cho Lâm Sử, truyền đạt chỉ thị của Trung ương Trung Cộng, nhưng đó cũng chỉ là những giáo huấn rất chung.
Chính sách của Bắc Kinh đối với Ngô Đình Diệm từ đầu năm 1962 đã thay đổi. Không phải Liêu Thừa Chí mà Hàn Niệm Long, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao của Trung Cộng, đồng thời là nhân vật chủ chốt của Ban đối ngoại trực thuộc Trung ương Trung Cộng đã điện cho Lâm Sử qua đại sứ Trung Cộng tại Nam Vang: Thay đổi Ngô Đình Diệm bằng cách nào đó là cần thiết đối với lợi ích của Trung Quốc bởi lẽ, trong tình hình hiện nay, sự tồn tại của Ngô Đình Diệm đồng nghĩa với việc xúc tiến những điều kiện thuận lợi để cho Việt Cộng kiểm soát toàn bộ Nam Việt Nam, hoặc trực tiếp do lực lượng Việt Cộng của Nam và Bắc phối hợp thực hiện hoặc thông qua bước quá độ kiểu Chính phủ liên hiệp ở Lào. Hết sức đề phòng khả năng đảo chính tại Sài Gòn do chịu ảnh hưởng Việt Cộng hoặc vì sức ép của Việt Cộng ngoài chiến trường. Nếu có đảo chính thì lợi nhất đối với Trung Quốc là người Mỹ tổ chức đảo chính liên hiệp với các thế lực thân Pháp. Sự kiện đó xảy ra càng sớm càng tốt.
Phương hướng đã được vạch rõ. Những gì John Hing trao đổi với Lâm Sử, chỉ minh họa thêm chỉ thị của Hàn Niệm Long.
Trong một lần về Bắc Kinh, Lâm Sử đã được nghe các nhận định khái quát về phân chia vùng thế lực ở Đông Nam Á và Đông Dương của Trung ương Trung Cộng. Riêng Việt Nam, Nam vĩ tuyến 17 nằm trong vùng ảnh hưởng của Mỹ, có dung hòa lợi ích với Trung Cộng. Nước Việt Nam sẽ chia cắt lâu dài. Điều gì đụng chạm đến chủ trương đó đều phải bị gạt bỏ.
Trung Cộng hi vọng xa hơn: tạo ngay trong ruột của Việt Cộng ở miền Nam một phân hóa nào đó dẫn đến tư tưởng “tự trị” đối với cả nước; muốn được như vậy cần phải kéo dài chiến tranh, Mỹ cần phải tham gia sâu hơn vào chiến sự.
Trung Cộng theo dõi thật chi li những diễn tiến của tình hình Nam Việt và lo lắng về khả năng chính Ngô Đình Diệm, bị dồn vào thế bí, chìa bàn tay xin xỏ sự giúp đỡ của Việt Cộng. Cả John Hing và Lâm Sử đều nhìn Nguyễn Thành Luân, nay là đại tá, như một thứ gạch nối cực kì nguy hiểm một khi Diệm muốn thoát khỏi bế tắc. Tuy nhiên, cho đến giờ phút này, ý kiến của John Hing chưa được Fishell chấp nhận. Hơn thế nữa, một số nhân vật cao cấp của Mỹ còn đặt Nguyễn Thành Luân trong ngôi thứ trọng yếu khi Mỹ thay đổi “đồng minh” ở Nam Việt.
Gì thì gì, Lâm Sử vẫn phải trả lời cho John Hing. John Hing không bằng lòng câu trả lời nguyên tắc mà muốn hiểu xem Lâm Sử tác động cụ thể như thế nào với Việt Cộng.
- Các ông đã để vuột ra khỏi tay mình các ông bạn đồng minh Việt Cộng quý hóa của các ông... - John Hing nhún vai sau khi nghe câu trả lời rất lúng túng của Lâm Sử.
- Chúng ta phải suy tính cách của chúng ta. - John Hing bảo Fishell, sau khi lắc đầu về vai trò của nhóm Lâm Sử trong kế hoạch hành động của họ.
- Tôi đánh cuộc với Tổng thống Kennedy rằng, sẽ không có hậu quả gì đáng kể nếu ông Diệm bị thay thế. Dĩ nhiên, tình hình sẽ tùy thuộc ở chỗ sự thay thế êm thấm hay ồn ào. Tôi chủ trương cố gắng để thay thế êm thấm. Tất nhiên, ông Diệm và gia đình ông ta rất cứng đầu, cần thiết phải có một sức ép. Sức ép đó, phải từ các quân nhân bởi vì Nam Việt đang có chiến tranh, ông Diệm không thể giữ ghế Tổng thống nếu không được các tướng ủng hộ.
Cuộc họp bắt đầu bằng những lời phân tích của tướng Mai Hữu Xuân. Tướng Xuân nói trước hết về tình hình chiến sự mà theo ông là bi đát. Với tư cách là Tư lệnh hành quân, ông phác qua đại cương trạng thái các chiến trường, các binh quân chủng và quy kết mọi trách nhiệm vào sự lãnh đạo của Tổng thống Diệm, đặc biệt nhấn mạnh đến sức phá hoại chính trị của vợ chồng Ngô Đình Nhu. Nói chung, những người dự họp không phản đối nhận định của tướng Xuân. Cái rắc rối bắt đầu ở chỗ phương pháp giải quyết. Tướng Xuân hăm hở nói đến một cuộc đảo chánh quân sự.
- Hành động chớp nhoáng bảo đảm chắc chắn thành công. Ở đây, tướng Đôn là tư lệnh lục quân. Với những điểm phải thanh toán, chúng ta cần một sư đoàn bộ binh, được pháo và thiết giáp yểm trợ... Đại tá Có đang là Phó tư lệnh vùng 3 chiến thuật, sẽ ngăn ngừa mọi hướng tiếp ứng mà theo tôi, nếu có cũng không lấy gì làm quan trọng...
- Tôi nghĩ công việc sẽ không đơn giản như tướng Xuân tính, - tướng Lê Văn Kim, người được các tướng cho là “bộ não của một quân sư” phát biểu với sự dè dặt thường lệ của ông. - Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống không phải là những “cây kiểng.” Sư đoàn 5 của Đại tá Nguyễn Văn Thiệu đóng cách thủ đô có 30 cây số. Hải quân chưa có dấu hiệu bất mãn. Không quân còn là ẩn số. Chúng ta có thể hi vọng ở lính Dù, một bộ phận bảo an... Kế hoạch hành động khôn ngoan phải bao gồm một loạt tính toán, trong đó yếu tố chính trị là hết sức quan trọng...
- Chính phủ Mỹ sẽ tuyên bố ngay lập tức ủng hộ Chính phủ mới. - Mai Hữu Xuân cắt ngang lời của Kim, liếc về phía Fishell. Fishell và Katterburg thì khoanh tay im lặng.
- Tôi cho là trở ngại chính của chúng ta không phải thuộc vấn đề kĩ thuật – đại tá Có nói - Ai sẽ cầm đầu Chính phủ mới? Người đó, phải đủ uy tín trong quân đội và lời kêu gọi đầu tiên của người đó phải có hiệu lực làm bất động ít ra các đơn vị đóng quanh thủ đô và được giới Phật giáo ủng hộ.
- Tôi muốn lưu ý các anh: Tướng Tôn Thất Đính đang là Tư lệnh ở vùng 3 chiến thuật. Lực lượng ở trong tay của anh ta không phải là nhỏ. Chỉ cần anh ta bác bỏ Chính phủ mới, chúng ta sẽ phải lâm vào tình thế khó xử và do đó chính biến phải kéo dài.
Nhận xét của tướng Đôn đẩy hội nghị vào điểm chết. Không ai hẹn ai, cả ba tướng đều giống như những tín đồ chờ lời phán xét của Chúa Trời. Mai Hữu Xuân bực bội mở bản đồ Sài Gòn, bản đồ bọc trong giấy kiếng, đã được vạch các mũi tên bằng bút chì mỡ. Ông toan thuyết trình tiếp. Đỗ Mậu ngó lên trần nhà, như đeo đuổi một ý nghĩ nào đó.
- Chúng tôi ủng hộ mọi sáng kiến nhằm cải thiện tình hình Nam Việt. - Fishell nói - Tuy nhiên nếu điều kiện khách quan đã