Nàng rón rén bước tới cách bức họa khoảng sáu, bảy bước, dường như sợ mình cũng đột nhiên ngất xỉu như ngày trước.
Bốn mắt giao nhau.
Vô Song nữ nhìn vào nữ thần trong bức họa, nữ thần dường như cũng đáp trả lại ánh mắt của nàng, tình cảnh cực kỳ quỷ dị.
Tình Trúc Các vắng tanh không một bóng người, chỉ là nàng biết rõ mình không hề cô độc, Vân Mộng nữ thần bồi bạn với nàng, đó là cảm giác không sao hình dung ra được, khiến nàng toàn thân lông lá dựng đứng, không lạnh mà run.
Nàng nghe tiếng mình vang lên: “Nàng thật ra là ai?”.
Một nỗi sợ hãi không tên vây chặt lấy nàng, nàng cảm thấy mình từng bước từng bước lùi về sau đến tận chiếc ghế dài dựa vào tường thì hai chân nhũn ra, ngồi phịch xuống ghế.
Vân Mộng nữ thần trong bức họa chẳng phải vẫn giữ nguyên bộ dạng tư thế hay sao? Nhưng không biết là mờ mắt hay ảo giác mà nàng cảm thấy được ánh mắt của nữ thần sáng rực lên, phát sinh biến hóa, dùng thần sắc tràn đầy thương hại chăm chú nhìn nàng.
Vô Song Nữ muốn dùng hai tay che mắt lại nhưng chân tay bải hoải, không sao thực hiện nổi động tác giản đơn đó.
Ánh đèn từ từ mờ dần.
Nàng không còn ở trong sảnh của Tình Trúc Các, phảng phất như đang từ không gian này chuyển sang không gian khác, nhưng hai không gian này tương hợp với nhau, sự chuyển giao lại rất tự nhiên, nàng không cảm thấy chút khác biệt nào.
Đầu óc trống rỗng, dường như đang chờ cho có tư tưởng hay tình cảm gì đó lấp đầy.
o0o
Ô Tử Hư nhắm mắt lại.
Thiền Dực không hiểu vội hô hoán: “Lang tiên sinh! Lang tiên sinh!”.
Ô Tử Hư mở mắt mỉm cười: “Phiền Thiền đại tỷ đến căn đình bên cạnh thỉnh đại tiểu thư đến đây”.
Thiền Dực cương quyết lắc đầu: “Không! Ta tuyệt không làm vậy”.
Ô Tử Hư nói: “Thiền đại tỷ đã nghĩ kỹ chưa?”.
Thiền Dực dứt khoát: “Đương nhiên là nghĩ kỹ rồi, nếu quả ta vào lúc này làm phiền đại tiểu thư và Tiền đại nhân, dẫu đại tiểu thư không trách ta, Bàn gia cũng mắng ta đến chết thôi”.
Ô Tử Hư chẳng chút lo lắng mỉm cười: “Thiền đại tỷ chưa nghĩ rõ ràng rồi, đó là do đại tiểu thư phân phó, sau khi hoàn thành bảy bức mỹ nhân đồ rồi, bất cứ lúc nào muốn gặp nàng thì nàng sẽ đến gặp ta ngay. Thiền đại tỷ quên rồi sao?”.
Thiền Dực giận dỗi: “Làm sao mà nói như vậy được. Đại tiểu thư chỉ nói khi nào rảnh thì mới gặp ngươi, nhưng bây giờ nàng làm sao mà rời khỏi được? Huống gì lần này là do đại tiểu thư chủ động ước hẹn với Tiền đại nhân, giữa chừng cáo lui quả thật thất lễ”.
Ô Tử Hư trong lòng chợt nãy sinh một cảm giác ngớ ngẩn, nếu quả tình thế tốt đẹp cho hắn khổ sở lắm mới tạo ra được, mà vì sự bất hợp tác của Thiền Dực làm cho việc giao dịch này thất bại, thử hỏi còn có chuyện gì vớ vẩn vô lý hơn chứ?
Hắn thở ra một hơi: “Thiền đại tỷ chỉ cần thông báo cho đại tiểu thư, nói Ô Tử Hư ta muốn lập tức gặp nàng ta, chuyện đại tiểu thư đến hay không là do nàng ta tự quyết định”.
Thiền Dực kiên quyết nói: “Ngươi muốn làm loạn thì cứ tự đi làm loạn, ta không điên chung với ngươi đâu”.
Ô Tử Hư thầm nghĩ chỉ còn nước buông tay thôi, có thể thuyết phục được Thiền Dực hay không đều do ông trời và Vân Mộng nữ thần quyết định. Hắn thành khẩn: “Ta không phải là muốn dọa Thiền đại tỷ, ta nãy giờ đã bồi dưỡng đầy đủ cảm hứng, sẵn sàng phát tiết ra, đặt bút thành họa. Nếu đại tiểu thư không thể lập tức đến gặp ta, cảm hứng đứt đoạn, mấy ngày liền ta sẽ không vẽ ra được thứ gì đâu, tám bức Mỹ nhân đồ bị thiếu sót, mà lại mất đi bức họa của đại tiểu thư, nếu quả như Bàn gia và đại tiểu thư trách tội thì...”.
Thiền Dực bực bội: “Ngươi đúng là vô lại, dám uy hiếp người ta”.
Ô Tử Hư cười mơn: “Ta sao dám uy hiếp Thiền đại tỷ chứ, nhưng biết làm sao đây. Được rồi, bây giờ ta về Phong Trúc Các đi ngủ, có chuyện gì ta sẽ đứng ra gánh chịu, tuyệt không cho bất cứ ai trách móc tiểu Thiền Dực của ta một tiếng nào”.
Thiền Dực mặt xụ xuống miễn cưỡng đứng dậy uyển chuyển gót sen, nguýt hắn một cái rồi mới bước đi.
Ô Tử Hư ngả người trên ghế, trong lòng thầm than may mắn quá.
Mưa càng lúc càng nặng hạt, sương mù càng lúc càng dày, mưa cùng sương quyện lẫn khiến cho Thư Hương Tạ dường như cách biệt hẳn với nhân thế, tựa như Vân Mộng hoang vu đã sớm bị người đời quên lãng.
o0o
Tiền Thế Thần mắt lộ vẻ bâng khuâng tiếc nuối: “Thành chủ đời thứ hai kế vị chính là một tướng lãnh kiệt xuất phi thường, từ mười tám tuổi đã nhiều lần phụng mệnh dẫn quân xuất chinh, đánh đâu thắng đó, kẻ nhiệt tình tìm hái Tương quả không kém phụ thân không phải là Sở vương mà chính là ông ta. Ông ta từng đến gặp tất cả các thầy bói cỏ thi nổi danh trong đất Sở, cuối cùng đã tìm ra được một kết luận: lúc nào hái quả hết sức quan trọng, quá sớm hay quá muộn đều không được, nhất định phải vào đúng lúc sấm giáng xuống”.
Bách Thuần đồng ý: “Người này rất thông minh, một khắc trước giờ Tí thì phải hái nếu không thì Tương quả sẽ bị biến chất. Tên của ông ta là gì?”.
Tiền Thế Thần đáp: “Sau việc đó Sở quân coi đó là chuyện cực kỳ sỉ nhục, do đó mọi chuyện có liên quan đều không được ghi vào sử của nước Sở, tên gọi của Thành chủ đời thứ hai cũng đã bị mai một. Bọn ta cứ gọi y là tân Thành chủ có được không?”.
Bách Thuần hưng phấn: “Vậy cứ gọi ông ta như vậy đi. Câu chuyện này đúng là hết sức hấp dẫn, khúc chiết bất ngờ. Tân Thành chủ cuối cùng có thể hái Tương quả được không?”.
Tiền Thế Thần đáp: “Sao lại dễ dàng thế được. Chỉ có điều như Bách Thuần đã nói, tân Thành chủ quả thật là người thông minh, lúc ông ta bình định Nam man đã vô tình lấy được một loại quặng sắt đặc biệt, bèn nảy sinh một chủ ý, đi tới trung tâm luyện kiếm nổi tiếng nhất ở đất Sở để tìm đại sư luyện kiếm tài giỏi nhất, sau ba năm đã miễn cưỡng chế thành một loại thần binh sắc bén vô song để dùng làm lợi khí hái quả”.
Bách Thuần khẩn trương hỏi: “Thành công không?”.
Tiền Thế Thần thở ra một hơi: “Thành công! Nhưng đồng thời cũng thất bại hoàn toàn”.
Bách Thuần không hiểu nhướng cao mày.
Tiền Thế Thần tiếp: “Tân Thành chủ y theo biện pháp trước đó, quấn dây quanh hông, đầu kia quấn quanh một hòn đá lớn ven bờ, đích thân nhảy xuống nước, trải qua một phen nguy hiểm thì đã thành công lấy được quả, ôm Tương quả quay trở lại bờ”.
Bách Thuần hỏi: “Không phải thành công rồi sao?”.
Tiền Thế Thần đáp: “Tân Thành chủ lúc đó cũng nghĩ như vậy, chỉ có điều Tương quả rời khỏi nước thì lập tức tan ra, chẳng còn nửa giọt nào trên tay nữa”.
Bách Thuần tỏ vẻ tiếc nuối: “Sao lại xảy ra chuyện như vậy chứ? Nước quả cũng có thể dùng mà!”.
Tiền Thế Thần nói: “Nếu Bách Thuần là tân Thành chủ thì có dám dùng hay không?”.
Bách Thuần không biết nói sao.
Tiền Thế Thần kể tiếp: “Tình huống thật sự ra sao thì ta không hiểu rõ, chỉ biết sự thật là thế. Tân Thành chủ tưởng thành công mà lại thất bại thì càng thêm thất vọng. Nửa năm sau khi hái quả thất bại, sự tình lại có chuyển biến mới”.
Bách Thuần hoan hỉ: “Nhất định là có liên quan đến cái hộp kỳ dị mà đại nhân từng nhắc tới, có phải không?”.
Tiền Thế Thần khen: “Nói chuyện với Bách Thuần quả nhiên là thoải mái, chính là như vậy. Tân Thành chủ hái quả không thành, buồn bực không vui bèn đi khắp nơi du ngoạn, đi qua Thương Ngô thăm một tiểu chư hầu ở đó, nhìn thấy cái hộp báu kỳ lạ này nên mới xảy ra chuyện về sau”.
Bách Thuần lấy làm lạ: “Cái hộp đó thực ra có gì đặc biệt đây? Tiền đại nhân à!”.
Tiền Thế Thần thấy nàng dịu giọng năn nỉ thì trong lòng mềm nhũn: “Cái hộp đó nhìn qua chẳng hề có chỗ nối, cách mở kỳ diệu phi thường, vị tiểu chư hầu đó đã tìm hết các thợ khéo xa gần nhưng vẫn chưa nghĩ ra cách. Đến khi hộp báu lọt vào tay tân Thành chủ thì ông ta gặp được một vị hiền triết tinh thông thiên văn mới có thể mở ra được. Điều kỳ lạ là trong hộp không có chứa gì, chỉ có điều cái hộp đã là một kỳ bảo giá trị liên thành rồi, nếu như Ngũ Độn Đạo lúc đó còn sống nhất định sẽ phải trộm bảo bối này”.
Dừng lại một chút rồi gã tiếp: “Tân Thành chủ hỏi lai lịch của hộp báu, tiểu chư hầu không kiêng kị gì thản nhiên nói đó chính là di bảo của Thuấn đế”.
Bách Thuần thân hình giật bắn: “Tương phu nhân không phải chính là phi tử của Thuấn đế sao? Sao lại xảo hợp như vậy chứ?”.
Tiền Thế Thần nói: “Theo Ngũ đế bản kỷ trong Sử ký, Thuấn đế nam tuần chết ở Thương Ngô, mai táng ở Linh lăng nơi Cửu Nghi sơn. Tiểu chư hầu sống ở Thương Ngô, ở gần chùa thì hưởng khói nhang, lấy được bảo vật cũng chẳng có gì lạ, còn chi tiết bên trong thế nào thì chẳng ai hiểu rõ”.
Bách Thuần vẫn chưa hiểu: “Dẫu là di vật của Thuấn đế đi nữa thì có quan hệ gì đến Tương quả chứ?”.
Tiền Thế Thần hít sâu một hơi: “Chuyện đời kỳ diệu vượt hẳn sự tưởng tượng của bọn ta. Ta chẳng phải đã nói với Bách Thuần là cái hộp đó bọc vải thêu, tuyệt diệu nhất chính là hoa văn trên đó. Hoa văn không phải là các loại hoa bình thường mà là hoa do Tương Phi thụ sinh ra, tân Thành chủ vừa nhìn qua đã nhận ra ngay. Nếu Bách Thuần là ông ta thì sẽ có liên tưởng gì chứ?”.
Bách Thuần giờ mới vỡ lẽ: “Thì ra là vậy, cái hộp đó quả thật là có quan hệ vi diệu với Tương quả, không ngờ chính là vật mà Tương phu nhân định để đặt Tương quả, nếu quả đưa Tương quả bỏ vào trong hộp nhất định sẽ phát sinh chuyện vô cùng kỳ dị, có thể chính là cách duy nhất để lấy được Tương quả”.
Tiền Thế Thần lấy làm lạ: “Trí tưởng tượng của Bách Thuần còn hơn ta nữa, hoặc giả tân Thành chủ khi đó cũng nghĩ như vậy, nhưng không ra tay cướp lấy, không phải vì ông ta không có năng lực mà sợ kinh động đến Sở vương, thế là đành nghĩ cách để ép hôn”.
Bách Thuần nghe đến lạnh run, không nhịn được hỏi: “Tân Thành chủ đã có bảo đao có thể chặt đứt cành của Tương Phi thụ, lại có thể gặp được hộp lạ dùng để đựng Tương quả, sau đó còn giữ quân Sở bên ngoài thành hơn tám năm, cuối cùng Tương quả có lọt vào bụng của ông ta được không?”.
Tiền Thế Thần đang định đáp lời thì chợt có tiếng chân bước lên lầu, hai người ngạc nhiên nhìn qua.
o0o
Qua Mặc từ trên lưng ngựa nhảy xuống, trong lòng chợt có cảm giác hồ đồ.
Hai chiếc khoái thuyền nằm ngổn ngang trên bờ sông, trên bờ có hơi hai mươi chiến sĩ thụ thương nằm rên rỉ, bao gồm cả bốn tên bị Cô Nguyệt Minh dùng tên bắn bị thương ban đầu.
Mưa và sương bao phủ khắp trời đất, cảnh vật chỉ cách hơn mười bước trở nên mơ hồ không sao nhìn rõ được.
Có hơn hai mươi chiến sĩ khác nghe tiếng kêu la cũng chạy đến với y, bọn họ vội vàng nhảy xuống ngựa đến giúp những kẻ bị thương nằm bò dưới đất.
Không cần hỏi Qua Mặc cũng biết chuyện gì đã xảy ra.
Dẫu coi Cô Nguyệt Minh là địch nhân, Qua Mặc trong lòng vẫn không khỏi bội phục y. Hèn gì Cô Nguyệt Minh có thể tung hoành thiên hạ, đám đạo tặc hung hãn đến đâu gặp phải y thì chỉ có nước ngoan ngoãn nghe lời.
Cô Nguyệt Minh sau khi đả thương binh sĩ thì đợi hai chiếc thuyền đến tận đây, nhân lúc chiến sĩ trên thuyền đang cứu chữa đám người bị trúng tên trên bờ, không có phòng bị gì thì dùng khoái kiếm đả thương những kẻ còn lại. Người bị kiếm chém trúng chỉ bị thương chứ không chết, nhưng cũng chẳng có cách nào đuổi theo y, lại còn trở thành gánh nặng phải cứu chữa nữa.
Luận về chiến lược, Cô Nguyệt Minh đã chiếm hết ưu thế thượng phong.
Điều khiến hắn vô kế khả thi là hắn dùng sức thi triển Thông linh đại pháp, trước giờ đều nắm chắc được vị trí của Cô Nguyệt Minh, thế nhưng từ khi Cô Nguyệt Minh bắn tên đã hoàn toàn biến mất tăm mất tích trong mạng lưới linh giác của hắn.
Hắn cũng chẳng còn cách nào đoán ra Cô Nguyệt Minh đang ở đâu.
Dưới mưa và sương mù thế này, muốn tìm một Cô Nguyệt Minh tinh thông thuật theo đuôi và bám ngược đuôi ở Nhạc Dương thành chẳng khác gì với chuyện mò kim đáy bể.
Một thủ hạ hổn hển chạy đến trước mặt gã, hoảng hốt gọi: “Qua gia...”.
Qua Mặc không để gã nói hết đã cắt ngang: “Hành động đêm nay dừng lại ở đây, các ngươi lập tức đưa người bị thương về phủ đệ đi”.
Nói xong hắn quay mình đi ngay.
Chân trần đạp lên phiến đá lát đường. một cảm giác kỳ dị chợt dâng lên trong lòng.
Hắn hiểu rõ Cô Nguyệt Minh, đó chẳng phải là sự hiểu biết về địch nhân, mà là một sự thông hiểu kỳ lạ vượt hẳn lẽ thường trong quan hệ giữa người với người.
Mưa bụi giăng giăng, đêm khuya đường vắng không một bóng người. Thời gian, địa điểm thậm chí cả trời và đất không còn quan trọng nữa. Điều trọng yếu nhất chính là hắn hiểu rõ Cô Nguyệt Minh đang đợi mình, quyết chiến giữa hắn và Cô Nguyệt Minh không có cách nào tránh khỏi.
Bao nhiêu thủ đoạn của Cô Nguyệt Minh đêm nay cuối cùng cũng là muốn ép hắn tiến hành một cuộc quyết chiến sinh tử với y.
Từ lần đầu tiên thi triển Thông linh đại pháp với Cô Nguyệt Minh, hắn đã lờ