Gã biết mình đã phạm sai lầm thứ hai.
Sai lầm đầu tiên, là mười năm trước gã thỉnh Qua Mặc đi tranh đoạt Sở hạp cho gã, sai lầm thứ hai là lừa gạt Đại Hà Minh, cũng là vì Sở hạp, khiến cho hiện tại muốn tìm một người thương lượng cũng không có chỗ trông cậy. Vì trong lòng có quỷ, lúc này gã sợ nhất là đối diện với Nguyễn Tu Chân và Khâu Cửu Sư.
Từ khi quen biết Qua Mặc, gã lần đầu hoài nghi lời nói của Qua Mặc. Qua Mặc nói cái gì Sở hạp vẫn lưu trong cổ thành, cần phải đuổi theo trước khi Cô Nguyệt Minh đến Vân Mộng Trạch, toàn là thoái thác và mượn cớ, sự thật thì Qua Mặc thấy gã đại thế đã mất, không chịu lưu lại cùng chết.
Nghĩ đến “chết”. Tiền Thế Thần từ đáy lòng dâng lên một luồng hàn ý, đột nhiên, Sở hạp không còn quan trọng nữa.
Lúc này một tên thân vệ vội vã chạy đến, bẩm báo: “Nhận được phi cáp truyền thư từ Kinh sư”.
Tiền Thề Thần tiếp lấy ống trúc, xé giấy niêm phong, lấy thư ra xem, không ngờ là tin tức liên quan đến Họa Tiên Lang Canh gởi đến chậm.
Tiền Thế Thần lập tức phấn chấn tinh thần, phong thư này khẳng định là vật ban thưởng của ông trời giúp tu bổ quan hệ với hai người Khâu, Nguyễn, đã không vạch trần lời nói láo của gã, lại có thể lập tức vào Hồng Diệp Lâu bắt lấy Ngũ Độn Đạo, sau này tất cả chiếu theo hiệp nghị mà tiến hành.
Nghĩ đến đây, há còn do dự, lập tức hét kêu thủ hạ chuẩn bị ngựa, lập tức đi bái phỏng hai nguời Khâu, Nguyễn. Kẻ canh cửa hô lớn: “Chỉ huy sứ Hồ Quảng tướng quân cầu kiến”.
Đổi lại là một ai khác cầu kiến, Tiền Thế Thần căn bản không thèm quan tâm, một câu tống cổ đi liền. Thế nhưng Hồ Quảng lại là nhân vật thứ nhì ở Lạc Dương thành ngoài gã, cũng là tâm phúc đại tướng gã tín nhiệm nhất, phụ trách toàn bộ công việc phòng ngự thành, đột nhiên cầu kiến như thế, chắc phải có chuyện khẩn yếu. Vội ra lệnh: “Mời Hồ tướng quân vào!”.
Tiếng bước chân vang lên.
Tiền Thế Thần tuy tâm thần không tập trung, vẫn bảo trì cảnh giác, khi nghe thấy tiếng bước chân của hai người, ngạc nhiên nhìn ra, lập tức giật mình hồn phi phách tán, hét lớn: “Giết!”.
Một thanh âm lạnh lẽo quen thuộc vang lên: “Thế Thần! Quá chậm rồi”.
“Choeng!”.
Hồ Quảng dẫn đầu tiến đến bạt xuất bội kiếm, hét: “Quý Nhiếp Đề đại thống lãnh đến, ai dám động thủ, lập tức giết chết không tha! Còn phải tru di diệt tộc”.
Muời tám tên thân binh trong sảnh đường, nghe lệnh Tiền Thế Thần vốn đã nắm chặt đao kiếm, nhưng khi nghe đến tên Quý Nhiếp Đề, kẻ nào kẻ nấy như bị sét đánh, không dám vọng động, hơn nửa số lại buông cả binh khí xuống.
Thần sắc Quý Nhiếp Đề bình tĩnh, ung dung từ phía sau Hồ Quảng đi tới, vượt qua Hồ Quảng, nhìn Tiền Thế Thần đang lướt tới, than: “Thế Thần ngươi quá không tự lượng sức rồi!”.
Ngoài cửa tiếng kêu thảm truyền vào liên tiếp, chớp mắt đã yên tĩnh trở lại.
Binh khí rời vỏ.
Năm tên thân binh la hét điên cuồng tấn công Quý Nhiếp Đề.
“Soẹt” một tiếng, Long Thủ đao của Quý Nhiếp Đề rời vỏ, di chuyển về sau, đánh ngược một đao, chỉ thấy đao quang nhoáng lên, một tên thân binh đang giơ đao bổ đến máu phun ra từ vùng bụng, chồm tới rồi ngã ngang.
Lúc này Quý Nhiếp Đề đổi hướng lao lên trước, tránh hai thanh kiếm công đến, giống như cá quẫy mình lách vào khoảng trống giữa hai tên, truớc khi binh khí chạm người, Long Thủ đao đánh ra như chớp giật, lướt trái chém phải, một tên trúng đao ngay mặt, tên kia bị cắt yết hầu, đao pháp tinh diệu, tốc độ rất nhanh, hạ thủ hung ác, khiến những tên thân binh khác không động thủ với hắn trợn mắt há miệng, rét run toàn thân.
Tiền Thế Thần gầm lên, lùi về chỗ ngồi chính, chụp lấy binh khí treo trên bức tường đằng sau chỗ ngồi.
Hồ Quảng thì tay cầm trường kiếm, ánh mắt sáng quắc giám thị những người khác.
Quý Nhiếp Đề xoay người, trường đao quét quanh một vòng, “keng” một tiếng, bổ trúng vào trường kiếm đang đâm đến.
Kẻ đó hổ khấu tê nhức, trường kiếm bị chém trúng văng khỏi tay rớt xuống đất, khi đang kinh hãi thối lui thì Quý Nhiếp Đề đã áp sát người hắn, lưỡi đao thuận thế lướt qua, trên cổ kẻ đó xuất hiện vết máu, lập tức ngã phịch xuống đất.
Tên cuối cùng còn chưa nắm rõ đã phát sinh chuyện gì, trước mặt đao ảnh đã ùn ùn đến, cản được hai đao thì bị chém đến mức mù mờ, đột nhiên phát giác Quý Nhiếp Đề xuất hiện sát người, tiếp đó ngực đau đớn, đã bị đao của Quý Nhiếp Đề phanh ngực.
Tiền Thế Thần cầm mâu lao đến Quý Nhiếp Đề, gầm vang: “Ta liều chết với ngươi!”.
Quý Nhiếp Đề ung dung rút đao từ trên ngực tên thân binh, tay trái đẩy một cái, kẻ bị giết ngã ngữa xuống đất, rồi đột nhiên chuyển thân, đao quang chớp nhoáng, chém trúng trường mâu đâm tới lưng, vừa nhanh vừa chuẩn.
Công phu của Tiền Thế Thần đúng là vượt xa đám thân binh, chân bước theo bộ pháp kỳ dị, thu mâu về, tiếp đó ảo xuất trùng trùng mâu ảnh, công về phía Quý Nhiếp Đề.
Quý Nhiếp Đề lắc đầu than: “Quá không tự lượng sức!”.
Long Thủ đao như ánh chớp chém mạnh ra, từng đao chém trúng đầu mâu, dù Tiền Thế Thần tấn công thế nào, vẫn không cải biến được tình thế, không thể bức Quý Nhiếp Đề lui nửa buớc, càng khiến Tiền Thế Thần mất khí thế.
Quý Nhiếp Đề mặc cho gã tận lực thi triển hết bản lãnh, sau khi ngạnh tiếp mười mấy kích, đột nhiên thi triển thủ pháp tinh diệu, mượn thế xoắn vào truờng mâu.
Trường mâu của Tiền Thế Thần gần như muốn tuột khỏi tay, kinh hãi lùi về sau, lùi được ba bước thì trụ lại, không dám động đậy, thì ra thủ hạ Xưởng Vệ của Quý Nhiếp Đề đã ào vào, ba bốn máy bắn nỏ đang nhắm vào gã.
Quý Nhiếp Đề cắm đao vào vỏ tựa như chưa từng trải qua động thủ, hét: “Thế Thần còn không chịu buông binh khí?”.
Sắc mặt Tiền Thế Thần xám ngoét, trán đổ mồ hôi lạnh, chuyện gã sợ nhất cuối cùng đã phát sinh, hiện tại giống như một cơn ác mộng không thể tỉnh lại, gã không còn phân biệt được cái gì là chân thực, cái gì là hư ảo”.
“Keng!”.
Trường mâu rời tay rơi xuống.
Quý Nhiếp Đề vui vẻ thốt: “Nói thẳng ra, ngươi rơi vào tay ta có thể nói là phúc phận tu mấy kiếp, nếu như là rơi vào tay đại công công, ngươi sẽ hối hận đã đầu thai làm người”.
Tiếp đó hét: “Mang hết những kẻ không có quan hệ đi cho ta”.
Đám thủ hạ theo lệnh áp giải đám thân binh còn lại ra ngoài, nhặt lấy trường mâu của Tiền Thế Thần, khiêng năm xác chết đi luôn.
Quý Nhiếp Đề thong thả bước qua bên cạnh Tiền Thế Thần, đến ghế chủ tọa ngồi xuống, Hồ Quảng thì đưa Tiền Thế Thần qua một bên, tới giờ mới tra kiếm vào vỏ.
Tám tên cao thủ Xưởng Vệ, phân ra hai bên.
Quý Nhiếp Đề bên trên nhìn xuống Tiền Thế Thần: “Sớm biết thế này, hà tất làm như vậy. Quay sang đây cho ta”.
Tiền Thế Thần run rẩy quay người đối diện Quý Nhiếp Đề, uy phong hàng ngày nửa điểm cũng không còn.
Quý Nhiếp Đề liếc nhìn vũng máu còn lưu trên mặt đất, nói: “Ta không phải hư ngôn dọa nạt, đại công công hiện đang ngồi thuyền đến Lạc Dương, có năm ngàn tinh binh đi theo. Thế Thần biết rõ thủ pháp đối phó phản thần của đại công công, chẳng hạn như mỗi ngày xẻo một miếng thịt, lại cầm máu cho đối phương để tránh vì mất máu mà chết, Thế Thần nói xem cực hình đó có tư vị thế nào?”.
Tiền Thế Thần hai chân nhũn ra, quỵ xuống đất.
Ánh mắt Quý Nhiếp Đề chuyển lên mặt gã, khẽ cười nói: “Bọn ta dù sao cũng quen biết đã lâu, không nhẫn tâm nhìn Thế Thần chết dở sống dở như thế. Thế này vậy! Chỉ cần Thế Thần ngoan ngoãn hợp tác với ta, ta có thể ở trước đại công công nói giúp ngươi để ngươi được lựa chọn phương thức tử vong, còn thả người nhà của ngươi chạy về Lĩnh Nam, ý Thế Thần thế nào?”.
Tiền Thế Thần lệ đẫm mặt: “Tất cả cứ theo phân phó của Quý đại nhân”.
Quý Nhiếp Đề vui vẻ: “Vậy mới là hài tử ngoan”.
Tiếp: “Mang Tiền đại nhân vào phòng cho ta, nghỉ ngơi cho tốt, dưỡng đủ tinh thần, bằng không với bộ dạng như thế làm sao đi gặp người”.
Bốn tên Xưởng Vệ lãnh mệnh áp giải Tiền Thế Thần đi.
Quý Nhiếp Đề trầm ngâm chốc lát, hỏi: “Không có tin tức của Qua Mặc sao?”.
Hồ Quảng cung kính đáp: “Qua Mặc sau khi xuất thành lúc hoàng hôn, không có quay về”.
Quý Nhiếp Đề nhíu mày cười khổ hỏi: “Cô Nguyệt Minh như thế, Qua Mặc cũng như thế, bên trong phải chăng có liên quan?”.
Hồ Quảng đáp: “Bốn cổng thành đều do người của thuộc hạ phụ trách canh giữ, nếu phát hiện bóng dáng bọn chúng, sẽ lập tức báo lên thống lãnh”.
Quý Nhiếp Đề trầm giọng: “Nhớ kỹ bọn ta không những phải lừa địch nhân, còn phải lừa binh tướng trong thành, để tránh quân tâm bất ổn, phát sinh phiền phức bất ngờ. Biểu hiện bề ngoài vẫn như cũ, không có ai biết được ta ở trong tối chủ trì đại cục. Hồ tướng quân lần này lập đại công, ta sẽ đề bạt với đại công công cho Hồ tướng quân đảm nhiệm chức vị Bố chính sứ ti”.
Hồ Quảng mừng rỡ tạ ơn.
Quý Nhiếp Đề ung dung nói: “Người của ta hôm nay sẽ trà trộn vào trong đám tân khách đến tham gia đại yến Hồng Diệp Lâu, bí mật nhập thành, phụ trách giết địch, nhiệm vụ của Hồ tướng quân là ổn định quân đội, bố phòng thủ thành, chuyện khác không cần quan tâm”.
Hồ Quảng hỏi: “Từ giờ đến dạ yến tối mai, còn có nửa ngày một đêm, nếu nhân vật mục tiêu xuất thành, thuộc hạ nên xử lý thế nào? Tiền Thế Thần từng hạ lệnh, phàm kẻ cầm thiệp mời của Hồng Diệp Lâu, bọn tôi không được ngăn cản ai xuất nhập thành”.
Quý Nhiếp Đề hờ hững đáp: “Danh sách giết người của bọn ta chỉ có ba người, đó là Ngũ Độn Đạo, Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân. Trong ba người, Ngũ Độn Đạo là quan trọng nhất, chỉ cần Ngũ Độn Đạo vẫn ở trong thành, hai tên Khâu, Nguyễn tuyệt sẽ không ly khai, mà cơ hội đào tẩu duy nhất của Ngũ Độn Đạo là khi yến hội kết thúc, ngay khi một số tân khách trong đêm ly khai, thừa cơ xuất thành. Vì thế Hồ tướng quân không cần lo lắng vấn đề ở phương diện này”.
Tiếp đến hừ lạnh: “Ta đã có kế hoạch chu tường, ai có tên trên danh sách giết người, không một tên nào có thể lọt lưới. Đại đạo chưa từng thất thủ sẽ nuốt hận trong Hồng Diệp Lâu, mà hai nhân vật xuất sắc của Đại Hà Minh cũng không thể sống sót rời khỏi Lạc Dương thành. Khi thuyền đội của đại công công cập bến ngoài Lạc Dương thành, tất cả sự tình sớm đã giải quyết xong, thiên hạ sẽ khôi phục lại yên tĩnh”.
Hồ Quảng lớn tiếng lãnh mệnh.
Quý Nhiếp Đề vươn thân đứng dậy, hai mắt sáng bừng, bình tĩnh thốt: “Ta hiện tại muốn tán gẫu với Tiền Thế Thần mấy câu, nắm rõ một chút sự tình. Việc của Lạc Dương thành, nhờ Hồ tướng quân vậy”.
Nói dứt đi khỏi chủ đường.
o0o
Cô Nguyệt Minh đứng trên đỉnh một ngọn đồi ở ngoài cổng Nam, từ xa quan sát cổng Nam thành đang đóng gấp lại, Khôi Tiễn đứng bên cạnh.
Y biết ước đoán có nhầm lẫn, ngoài thành tuyệt không có người của Quý Nhiếp Đề, tình thế hiểm ác hơn cả tưởng tượng của y.
Cô Nguyệt Minh vốn cho rằng vì Quý Nhiếp Đề đã nắm rõ tối mai Ô Tử Hư từ cổng Nam chạy đi, nhất định bố trí thiên la địa võng ngoài thành, một mẻ lưới tóm gọn Ô Tử Hư và Khâu Cửu Sư cùng đám thủ hạ đuổi theo.
Ngoài cổng Nam tuy là vùng đất bằng phẳng, một quan đạo chạy thẳng qua khu rừng rộng lớn, mặt tây là Động Đình Hồ sương khói mênh mang, thế nhưng Quý Nhiếp Đề lại có đủ thực lực không cho nhân vật mục tiêu chạy thoát vào nơi hoang vắng. Nếu Ô Tử Hư trúng kế lấy ngựa, càng là chết chắc không sai.
Nhưng bất luận thế nào, ở góc độ lấy nhiều đánh ít, động thủ trong thành, sao cũng không so được với động thủ ngoài thành.
Cô Nguyệt Minh biết Tiền Thế Thần xong rồi.
Khi y phát giác ngoài thành không có bóng dáng một đội nhân mã nào của Quý Nhiếp Đề, liền biết nơi Quý Nhiếp Đề hành động là ở trong thành chứ không phải ngoài thành. Mà hành động trong thành, điều kiện tiên quyết là khống chế Tiền Thế Thần, đem gã biến thành con rối có thể khống chế theo ý, bố trí Lạc Dương thành nằm trong lòng bàn tay của y.
Cô Nguyệt Minh nhớ lại lời Quý Nhiếp Đề nói lúc chia tay, kêu Cô Nguyệt Minh không cần đi tìm y, khi có chuyện hắn tự biết tìm Cô Nguyệt Minh. Khi đó Cô Nguyệt Minh không để lời này trong lòng, lúc này nhớ lại, mới rõ trong đó có thâm ý khác. Quý Nhiếp Đề là vì muốn thu thập Tiền Thế Thần, không muốn tình huống người đi nhà trống bị Cô Nguyệt Minh khám phá, cho nên mới nói vậy. Quý Nhiếp Đề đương nhiên sẽ đi tìm y, bất quá lại không phải có chuyện thương lượng, mà là muốn giết y.
Cô Nguyệt Minh hít sâu một hơi, dằn xao động trong lòng xuống.
Trước đây y chưa từng lo lắng cho bất kỳ ai, không phải y không có lòng thương cảm, mà là có chút giống như cái xác không hồn, cảm giác tê dại. Nhưng hiện tại y đã biến thành một “người sống” có huyết nhục, máu chảy trong người là máu nóng, không còn không quan tâm đến người khác.
Ô Tử Hư, Khâu Cửu Sư, Nguyễn Tu Chân, Bách Thuần, thậm chí Vô Song Nữ đều rơi vào trong tình cảnh rất nguy hiểm, mà nguy cơ lớn nhất là bọn họ mù mờ không biết Tiền Thế Thần không còn khống chế được Quý Nhiếp Đề, cho phép Quý Nhiếp Đề có thể phóng tay mà làm, đem chiến thuật lấy nhiều hiếp ít phát huy tận cùng, toàn diện phát triển kế hoạch giết người của y.
Nơi động thủ sẽ là Hồng Diệp Lâu, đại yến mười năm biến thành yến hội tử vong. Khi không còn cố kỵ, Quý Nhiếp Đề sẽ không cho bất cứ nhân vật mục tiêu nào sống mà rời khỏi Hồng Diệp đường.
Y đã không thể quay vào thành, hơn nữa đó là hành vi bất trí nhất.
Nếu phán đoán theo tình thế trước mặt, bọn Ô Tử Hư chết chắc không sai.
Hy vọng duy nhất, chỉ có thể ký thác lên người Vân Mộng nữ thần, chỉ có pháp lực vô biên vượt xa phàm thế của nàng, mới có khả năng xoay chuyển bại thế.
Lần này nàng có thuật xoay trời chuyển đất gì đây?
o0o
Bát Trận Viên. Lương đình hậu viên.
Đêm nay trời không ánh sao, mây giăng thấp nặng, xem ra khí trời ngày mai không được tốt.
Khâu Cửu Sư đi đến ngồi cạnh Nguyễn Tu Chân đang một mình ngồi trầm tư trong đình, thở dài nói: “Hy vọng đêm nay có thể trôi qua bình yên”.
Nguyễn Tu Chân ngẩng mặt quan sát: “Thật cổ quái, mỗi lần đến lúc quan trọng, khí trời lại biến đổi thình lình, ví dụ như trận cuồng phong bạo vũ ngày ngươi và Bách Thuần quyết liệt chia tay ở Ban Trúc Lâu”.
Khâu Cửu Sư thốt: “Chắc là chuyện trùng hợp thôi!”.
Nguyễn Tu Chân nói: “Ngươi giải thích trận sương mù lớn hiếm thấy khi Ngũ Độn Đạo bí mật gặp Tiền Thế Thần như thế nào? Sự biến chuyển của khí trời dường như phát sinh xoay quanh Ngũ Độn Đạo, lúc mưa gió tàn phá, chính là lúc Cô Nguyệt Minh đến gặp Ngũ Độn Đạo ở Phong Trúc Các của Hồng Diệp Lâu, sự gặp mặt của bọn họ đã quyết định sự phát triển tình huống sau này. Ngươi vẫn cho rằng là xảo hợp sao?”.
Khâu Cửu Sư hỏi: “Nói như thế, Vân Mộng nữ thần lại có thể ảnh hưởng đến khí trời?”.
Nguyễn Tu Chân cười khổ đáp: “Ta không biết, nhưng lại hy vọng Vân Mộng nữ thần xác thực có pháp lực kinh nhân, bất luận là sương mù dày đặc, hay là một trận mưa to, phát sinh ở thời điểm thích hợp, đối với bọn ta là có lợi chứ không có hại”.
Khâu Cửu Sư hỏi: “Ta liệu có nên đi gặp Tiền Thế Thần không?”.
Nguyễn Tu Chân đáp: “Tốt nhất không nên đi. Ngươi là một người không giỏi nói dối, rất dễ bị Tiền Thế Thần nhìn ra sơ hở, sớm mai sau khi ta ly khai, ngươi đến Hồng Diệp Lâu tránh đi, Quý Nhiếp Đề có thể hiểu lầm cho rằng ngươi và Bách Thuần lửa tình bừng cháy, không đành lòng rời nhau. Khà! Thật tình có thể chính là như thế”.
Khâu Cửu Sư thẹn: “Không được cười ta”.
Nguyễn Tu Chân vui vẻ thốt: