“ ”
- Vô tự bi (Bia không có chữ) ở Lăng Mộ vủa Võ Tắc Thiên
(P/s: Thấy quote độc lạ thì vỗ tay!
Đùa chứ, ý nghĩa của cái bia đá không có chữ này là ‘công tội để hậu thế luận bàn’.
Ở thời Đường, các hoàng đế có một thói quen khá ngớ ngẫn đó là đặt thụy hiệu dài để ca ngợi công đức và tài năng của họ, các bia trong lăng vua Đường kể công lít nha lít nhít chữ.
Cái gì mà Văn Thành Võ Đức Anh Minh Thanh Lịch Vô Địch Vân Vân Và Mây Mây
Duy chỉ có Võ Tắc Thiên là đi trái lẽ thường, dựng ‘Vô tự bi’)
Trong khi Từ Hoảng vô cùng ý tứ đi ra xa thay hai thầy trò canh gác, đồng thời tránh hiềm nghi nghe lén thì câu chuyện bắt đầu lui về mấy trăm năm trước, thời kỳ Hán Vũ Đế.
Năm đó Lưu Triệt đã già, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh đã chết, dưới tay không có bao nhiêu tướng tài, lại bởi vì muốn chèn ép thế gia nên một mực tin dùng ngoại thích.
Hung Nô bị đuổi đi rồi lại đến phạm, Lưu Triệt cử em vợ là Lý Quãng Lợi dẫn quân đến chống cự.
Hoàn toàn trái ngược với tác phong hùng dũng của Vệ Hoắc ngày trước, Lý Quãng Lợi tác chiến mềm yếu, dù không thất bại lớn nhưng cũng chả công lao gì, lại hao phí tài nguyên rất lớn.
May có Lý Lăng làm người quả cảm gan góc, học theo Hoắc Khứ Bệnh ngày trước, dẫn theo nhánh quân nhỏ, đột nhập ngàn dặm liên chiến liên thắng khiến Hung Nô hoảng sợ lui về.
Có điều Lý Lăng xuất thân từ đại gia tộc xứ Quan Lũng, Lý gia.
Từ sau khi ông nội của Lý Lăng là Phi Tướng Lý Quãng mất đi, Quan Lũng thế gia một mực bị rơi vào chèn ép, trở thành con tốt thí trên ván cờ của Lưu Triệt và thế gia.
Thế là xuất hiện một điều vô cùng quái dị trên chiến trường Hán-Hung.
Lý Lăng hung hãn xông tới, Lý Quãng Lợi lại bình chân như vại, nhất quyết không chịu tiến quân hô ứng.
Cuối cùng mãnh hổ nan địch bầy sói, quân số của Lý Lăng giảm xuống không đến một phần mười lúc đầu, chỉ còn vài trăm người, thế là Lý Lăng quyết định hàng.
Lý Quãng Lợi báo việc này với Lưu Triệt, Lưu Triệt bèn nhân cơ hội muốn xử đẹp Lý gia.
Quan Thái Sử Lệnh là Tư Mã Thiên can gián, nói rằng Lý Lăng phấn chiến quên mình lại không được quốc gia ủng hộ nên mới hàng địch, nếu như đối xử nhân từ với Lý gia thì ngày sau Lý Lăng sẽ lại về Hán chứ làm theo kiểu Lưu Triệt thì ai còn dám vì nước phấn chiến nữa.
Lưu Triệt nổi giận đem Tư Mã Thiên đi ‘cung’ (P/s: Thái giám).
Bởi vì người mang tội ‘cung’ không được phép có hậu nhân nên hai người con ruột của Tư Mã Thiên mới rời khỏi tông tộc, thay tên đổi họ, một người lấy chữ Tư thêm vào một nét thành chữ Đồng, một người lấy chữ Mã thêm vào hai nét thành chữ Phùng.
Hai anh em đi vào nơi thâm sơn cùng cốc dựng gia tộc tránh triều đình hạch sách.
Họ Đồng và họ Phùng cũng suốt mấy trăm năm không hề thông hôn qua lại, nhưng lý do vì sao thì chỉ có bậc trưởng thượng trong tộc mới biết.
Đồng Uyên hồi còn trẻ võ công tấn mãnh liền xách thương lưu lạc thiên nhai.
Từng có duyên gặp gỡ và đem lòng mến một một người nử hiệp họ Phùng, về sau sự việc vỡ lỡ ra, trưởng bối hai bên ngăn cấm, chia rẽ uyên ương, người con gái ấy cũng đã đi mất biệt, không tìm được nữa.
Đồng Uyên một mực vì việc này mà cắn rứt, ông không hận gia tộc đã nuôi lớn mình, mà ông hận Lưu thị, hận ngoại thích quyền thần.
(P/s: Tư Mã Thiên viết Sử Ký vẫn luôn buông lời ác cảm với những Hoàng Đế chuyên quyền và thế lực ngoại thích.
Cho dù là công lao lớn như Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh đều bị chê mấy lần.
Về phần họ Đồng có nguồn gốc họ Tư Mã, thì có thể các bạn đọc có thể tìm hiểu về nguồn gốc họ Đồng và Phùng tại Việt Nam trên google.
Xin lưu ý đây là tiểu thuyết dã sử cộng thêm chút huyền huyễn nữa nên chỉ cần có 10% khả năng thì tác cũng có quyền bê vào)
Hồi chiều Thái Ung cùng Vệ Trang tay bắt mặt mừng con nhắc lên thầy dạy của Thái Ung ngày xưa là Mã Dung khiến Đồng Uyên cảm thấy khó chịu.
Nếu như Đồng Uyên bị người thường lừa thì cũng thôi đi, lấy tính cách giang hồ tãn mạn cộng thêm đã già đời, đối nhân tình thế thái có phần hiểu rõ của hắn thì sẽ dễ dàng bỏ qua cho Vệ Trang.
Nhưng bởi vì Vệ Trang chính là hậu nhân của ngoại thích khiến cho Đồng Uyên cảm thấy mình giống như tổ tiên Tư Mã Thiên ngày trước, bị ngoại thích hãm hại.
Họ Vệ ở Hà Đông nguồn gốc từ Vệ Thanh, không xa lạ gì với nhà họ Đồng, bởi vì Vệ Thanh miễn cưỡng tính là người cùng thời với Tư Mã Thiên.
Tại trong tư tưởng của những trưởng bối cổ hủ trong gia tộc thì Vệ Thanh vốn chỉ là đứa con hoang thấp hèn từ một mối quan hệ lăng loàn vụng trộm, lại may mắn có được người chị lọt mắt xanh của Lưu Triệt nên mới được cất nhắc, trọng dụng mới có cơ hội trở thành lão tổ của một thế gia.
Mã Dung thì càng không xa lạ gì, danh vọng lớn vô cùng, là thầy của mấy vị đại nho đương thời là Trịnh Huyền, Thái Ung và Lư Thực.
Ông cũng đồng dạng là ngoại thích, là cháu của Minh Đức Hoàng Hậu Mã thị, vợ Hán Minh Đế, con dâu Quang Vũ Đế.
Nghe xong câu chuyện này thì Hoàng Hùng muốn bật cười nhưng nghĩ tới cảm nhận của Đồng Uyên nên kiềm lại.
Hoàng Hùng để cho Đồng Uyên cảm xúc ai vãn một hồi, đến khi nguôi ngoai mới hỏi:
“Thầy hận Lưu Triệt hay Lưu thị?”
Đồng Uyên nghe vậy liền mở miệng nhanh nhảu nhưng rồi khi lưỡi còn chưa kịp uốn liền sững sờ:
“Ta ….
Ta cũng không rõ”
Nói Lưu Triệt thì có chút quá xa rồi, người cũng đã chết mấy trăm năm còn giữ hận trong lòng thì cũng quá cố chấp si ngốc rồi.
Nói Lưu thị lại càng có vấn đề, thiên hạ này còn là của nhà Hán, tông gia Hà Nội Tư Mã Thị còn có người làm Kinh Triệu Doãn đây, mình hô một tiếng ‘ta hận Lưu thị’ không biết muốn rước đến bao nhiêu tai ương.
Nhưng càng nhiều là vì Đồng Uyên cũng không rõ nguồn gốc mối hận trong lòng mình.
Đúng vậy, không rõ!
Cái gọi là thành kiến xưa nay đều không xây dựng trên những chứng cứ và lập luận chặt chẽ.
Bình thường nó lái tư duy của con người đi theo hướng cực đoan nhưng chỉ cần tĩnh táo suy xét thì sẽ thấy những việc ấy thật mơ hồ, thật vô nghĩa.
“Trong sự việc ấy, Lưu Triệt rõ ràng có sai, nhưng Lý Lăng và Tử Trường công cũng không hoàn toàn đúng” (P/s: Tư Mã Thiên tự là Tử Trường.
Dù sao cũng là tổ tiên của thầy, kính xưng vẫn nên)
Đồng Uyên lại gân cổ:
“Lý tướng quân sai chỗ nào?
Chẵng lẽ phải cam nguyện chịu chết cho kẻ bạo quân?
Tổ tiên ta sai chỗ nào?
Hắn chỉ là nói thẳng nói thật mà thôi!”
Hoàng Hùng cười gật đầu:
“Về việc này thì ngài nói đúng.
Lý Lăng làm việc co được giản được, dũng cảm nhưng không cố chấp, ấy là đáng khen.
Nếu như hắn là một cái hàn môn nhà nghèo không có thân thích, vậy ta liền khinh bỉ hắn phản quốc.
Nhưng hắn vốn là một cái con em thế gia, lại dám vì các huynh đệ dưới trướng mà bỏ xuống tự tôn, bỏ xuống an nguy của gia tộc, thật là quả cảm vậy.
Thế nhưng xét đến nguyên nhân từ đầu thì sự việc vốn do Lý Lăng quá mức tự tin.
Hắn không nên liều lĩnh đột nhập vào quân địch quá sâu, không nên đem tất cả hy vọng sống đặt trên tay Lý Quãng Lợi, một cái thuộc về trận doanh đối lập.
Lý Lăng không bất trung, không bất nghĩa, hắn là thất trí.
Mà Tử Trường công cũng đồng dạng là thất trí.
Đúng là Tử Trường công dám nói thẳng nói thật, cương trực công chính, xứng đáng chức vị Thái Sử Lệnh, được lập ra để can ngăn vua làm chuyện sai.
Nhưng Lưu Triệt sai sao?”
Đồng Uyên hỏi lại: “Chẵng lẽ không sai? Ngươi không phải vừa mới nói hắn sai sao?”
Hoàng Hùng lại lắc đầu:
“Học trò nói Lưu Triệt sai trong việc đối xử bất công với Lý Lăng và Tử Trường công.
Nhưng việc Lưu Triệt mượn cái cớ Lý Lăng hàng địch để chèn ép Lý gia, suy yếu lực lượng của thế gia lại không sai.
Ngài du lịch giang hồ nhiều năm như vậy.
Theo ngài thì cái họa lớn nhất của thiên hạ này là từ đâu?”
“Hôn quân ám nhược, ăn chơi vô độ?”
Hoàng Hùng lại lắc đầu:
“Không phải, mặc dù chỉ ở Lạc Dương một thời gian, nhưng rất nhiều dấu hiệu để cho học trò chắc rằng Lưu Hoành không hôn, không nhược cũng không ngu.
Lên ngôi khi mới 13, 14 tuổi, chỉ dùng vài năm liền xử lý ngoại thích hùng mạnh Đậu, Trần hai nhà.
Mỗi lần tuyển tú đều dè dặt kỹ càng, hơn nữa đến nay đã gần mười năm tại vị, cũng chỉ mới có một con gái cùng một cái còn đang trong bụng Hà quý nhân.
Vấn đề duy nhất của Lưu Hoành chính là không với tay được tới địa phương, không thể trực tiếp nhìn thấy nhân dân cùng khổ đang kêu than.
Có điều việc này không phải do hắn.
Là do thế gia”
“Không phải còn có Huyền Kính Ty trãi rộng thiên hạ sao?”
Hoàng Hùng vẫn lắc đầu:
“Huyền Kính Ty chỉ quản giết không quản chôn, bọn họ là đao chứ không phải tai mắt, là sát thủ chứ không phải nha lại.
Không nói đến việc bọn họ có quyền đem tình hình địa phương bẩm báo hay không, chỉ nói đến việc bọn họ báo thì có lên được tới thượng cấp cao nhất để vào tai Lưu Hoành hay không.
Ta một mực hoài nghi Huyền Kính Ty đã bị thế gia mua chuộc.
Sự việc thầy Thái Ung bị đi đày lần này vốn là một trận đấu giữa hai bên Lưu Hoành và thế gia.
Lưu Hoành thao tác từ đầu đến cuối đều là hướng về phía bảo hộ thầy Thái Ung.
Làm sao đến trên đường đi đày rồi lại phái người ám sát?
Lỡ như chuyện này lộ ra, liền mang tiếng ném đá giấu tay hãm hại trung lương, xui xẻo một chút sẽ bị thế gia liên hợp hạch tội truất ngôi.
Vậy chẵng bằng ngay từ đầu liền mặc cho thế gia kết tội vu oan chém đầu thầy Thái Ung luôn có phải càng có lý, càng đỡ dính vào bêu danh không?”
“Vậy ý ngươi là thế gia là nguồn cơn của tai họa?”
Hoàng Hùng gật rồi lại lắc:
“Đúng nhưng không hoàn toàn!”
Hắn nhìn ánh mắt có chút khinh thường của Đồng Uyên, cười nói:
“Học trò cũng không phải bao che chừa đường cho nhà họ Hoàng chúng ta.
Thế gia cũng có thế gia này, thế gia kia, đó là sự thật!
Tại lập trường của thế gia, việc liên hợp với nhau bảo vệ giai cấp của mình cũng không sai.
Tại trong sự nghiệp tạo dựng cùng bảo vệ an toàn cho quốc gia, thế gia góp sức vô cùng lớn, xứng đáng có được một chút địa vị và quyền lợi.
Chỉ là lâu ngày lòng người biến chất sinh ra tham lam, được một muốn mười.
Khi thế gia tự vệ quá mức chuyển thành áp bách, bóc lột tầng lớp khác thì chính là lúc chính nghĩa không còn đứng về phía thế gia nữa.
Kỳ thật rất nhiều đời hoàng đế bất kể là người được lưu danh minh hiền hay kẻ bị bêu là hôn nhược cũng đều chú ý giải quyết bất cập thế gia.
Thậm chí nói không quá chính là bởi vì giải quyết êm đẹp, công thành lui thân thì được viết vào sử là minh hiền.
Còn giải quyết không tốt để dẫn đến bị phản phệ xuống đài trong ê chề thì sẽ hóa thành nét bút hỏng trong trang sử”
Đồng Uyên nghe vậy suy ngẫm một hồi lại nhìn Hoàng Hùng nói:
“Vậy theo ngươi Lưu Hoành chính là cái kia sẽ bị bêu danh?”
Hoàng Hùng gật đầu nói:
“Thời vận không đủ.
Loạn tượng mạt thế đã hiện lên từ lâu.
Nếu như hắn sinh sớm hai ba mươi năm thì còn được.
Bây giờ thì hiện trạng đã vượt quá năng lực của hắn”
Đồng Uyên lại hỏi:
“Nếu ngươi là Lưu Hoành thì ngươi sẽ làm sao?”
Hoàng Hùng cười lắc đầu:
“Học trò không phải Lưu Hoành.
Sẽ không cần phải đối mặt những vấn đề như vậy.
Có điều theo học trò thì tầng lớp thống trị sinh ra là để thống nhất ý kiến của mọi người vì mục tiêu chung, hạnh phúc chung, đồng thời đảm bảo trị an, an toàn để cho quốc gia phát triển hướng tới mục tiêu đó.
Có lẽ thầy chưa từng nghe qua nhưng đã có một thời dãi đất phương nam đều thống nhất dưới sự dẫn đầu của một vị mang chức danh là Hùng Vương”
Đồng Uyên nghe thế giật mình:
“Vương tộc Bách Việt?”
Hoàng Hùng lại lắc đầu:
“Không phải.
Vương chỉ là sử quan triều đình thêm vào cho có nghĩa mà thôi.
Bọn họ làm như vậy là vì không hiểu mấy về văn hóa Bách Việt.
Học trò sinh ra trên mảnh đất ấy, cùng với người Bách Việt giao lưu nhiều nên biết.
Hùng không phải họ.
Nói cho đúng thì người Bách Việt vốn không có họ, cũng chẵng có tính.
Những thứ này là văn hóa Trung Nguyên mang vào Sở Ngô Việt, sau đó Triệu Đà dựng Nam Việt, Mã Viện bình Lĩnh Nam mới dần dần xuất hiện họ và tính.
Kỳ thật thì Hùng có ý nghĩa nguyên thủy là người xứng đáng, người được mọi người ủng hộ, nôm na chính là ý nghĩa của từ Minh Quân hay Nhân Vương trong tiếng Hán.
Người Bách Việt tin rằng họ vốn đều là anh em cùng một mẹ, cùng sinh ra trong một bọc trứng, không phân sang tiện quý hèn, gọi nhau thân mật là đồng bào, tức cùng bài thai, cùng bọc trứng.
Tuy nhiên, cái tên Bách Việt cũng nói lên nhiều điều.
Ở thời cổ,