“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng Đế một phương”
- Trích ‘Bình Ngô Đại Cáo’ của Nguyễn Trãi
“Thúc phụ”
Hoàng Dung lo lắng nhìn ông lão.
Nói ‘ông lão’ là do vẻ bề ngoài, chứ thực ra chỉ mới hơn 40 thôi.
Người này không ai khác,
Chính là gia chủ đương nhiệm của nhà họ Hoàng đất Kinh Tương, Hoàng Uyển,
Tại Nho Đảng hiện thời cũng là có chút tài danh, được sĩ nhân đất Kinh Tương trọng vọng xưng là Tử Diễm công.
Số là Hoàng Uyển đang bế trên tay con của Hoàng Dung, Hoàng Hùng, mà tâm trạng lại có chút lơ đãng xuất thần, khiến cho nàng không hiểu ra sao.
“Ây.
Xin lỗi Dung nhi!
Ta nhìn đứa bé này đột nhiên nhớ đến Hạng Long.
Ai da!
Hùng nhi, ông ngoại mỏi tay rồi, lâu ngày không gặp ngươi lớn nhanh quá nha!
Theo Nhã tỷ đi chơi nha.
A Nhã, chăm sóc công tử cho tốt đó”
“Hì hì! Vâng thưa thúc công”
Rời tay Hoàng Uyển, Hoàng Hùng lễ phép chào thưa rồi dắt theo nha hoàn a Nhã rời đi.
(P/s: nhập nhằng đan xen ‘thúc phụ’, ‘Dung nhi’, ‘thúc công’, ‘ông ngoại’ là có chủ đích chứ không phải tác bị ngáo, sau này sẽ có tình tiết cần lấy những xưng hô này làm trung tâm.
Gợi ý: Hạng Long!!!
Quan hệ nhắc lại cho ai thấy rối:
Hoàng Uyển là chú lại nhận Hoàng Dung làm con gái nuôi
Hoàng Dung lấy Hạng Long sinh ra Hoàng Hùng, bắc cầu thành cháu ngoại nuôi của Hoàng Uyển
Hoàng Thừa Ngạn nhận Hoàng Hùng làm con nuôi nhưng chỉ là anh họ Hoàng Dung, cháu họ Hoàng Uyển.
Ngoại trừ Hoàng Uyển tự xưng mình là ‘ông ngoại’, ‘cha’, thì Hoàng Dung, Hoàng Hùng và Hoàng Thừa Ngạn đều xưng hô bình thường như chưa từng có ai nhận nuôi ai.
Gia tộc mà lớn thì quan hệ rắc rối phức tạp lắm các ông trẻ bà trẻ ạ.
Nói chung là do tác cố tình, muahahaha!)
Nhìn hai người Hoàng Hùng và a Nhã dạo chơi trên đồng cỏ, ngửi hoa, đuổi bướm, nhìn trời, ngắm đất, Hoàng Uyển vốn mặt già ửng đỏ cũng rất nhanh đem che giấu đi sự bối rối, rồi nói lãng sang chuyện khác:
“Haizz,
Nói đến Hạng Long tiểu tử kia.
Dù gì cũng là ân nhân cứu mạng của ta.
Chẵng lẽ nhà họ Hoàng còn không nuôi nổi hắn sao?!
Làm gì rời đi kia chứ, lấy hắn Hạng thị thân phận, chỉ sợ phải lưu lạc tứ phương, không nơi nương tựa.
Uổng phí một thân dũng mạnh a!
Cha còn nhớ năm đó, một bàn tay kia đập xuống đem con thương long dài hai trượng kia đánh cho choáng váng, cứu tánh mạng của ta trong gang tất.
Dung Nhi ngươi không thấy được lần đó,
Không biết được phu quân của ngươi dũng mãnh cỡ nào,
Tiểu tử kia thật là trời sinh thần lực, không hổ là hậu nhân của Bá Vương.
… chíu chíu bùm bùm, nước văng tung tóe”
Hoàng Dung đã nghe chuyện này đến vài lần, mỗi lần một phong cách, nhưng tựu chung cũng là một nội dung chừng đó.
Nàng chỉ biết cười cười, thỉnh thoảng trợn mắt gật đầu vờ như mới nghe qua lần đầu.
Thúc công kiêm nghĩa phụ của nàng cũng không biết thân phận thật của chồng nàng, nói cho đúng là cả nhà họ Hoàng chỉ có một người rưỡi biết,
Đó là nàng cùng với ‘bán tín bán nghi’ Hoàng Thừa Ngạn.
Về phần Hoàng Uyển, đừng nhìn bề ngoài còn đang bị ‘thuyết thư tiểu lão nhân’ nhập vào, thao thao bất tuyệt phun mưa chém bão, kỳ thật trong lòng thi lau mồ hôi lạnh thầm hô may mắn.
Mỗi lần hắn đều biến tấu câu chuyện theo một cách khác nhau cũng là có nguyên do.
Thứ nhất là vì hắn hiểu Hoàng Dung, biết mình không đem ra được bao nhiêu chuyện lọt tai nàng, chỉ có chuyện cũ của Hạng Long còn tạm được.
Thứ hai là vì dù có lươn lẹo dẽo quẹo đến đâu đi nữa thì cũng không thể nói cho Hoàng Dung là hắn thất thần vì lo lắng cho vận nhà Hán được.
Từ khi Hạng Long rời đi hai năm trước, cháu gái kiêm con nuôi yêu quý nhất của hắn, viên ngọc quý của nhà họ Hoàng, Hoàng Dung, liền hận lên Lưu thị.
Mặc dù giữ kẻ không nói ra lời nhưng hễ ai ca cẩm ưu lo cho nhà Hán, hoặc tán dương tiên tổ họ Lưu là nàng đều không cho sắc mặt tốt.
Chớ nhìn Hoàng Dung là nữ tử mà lấy tư tưởng đương thời áp đặt vào thân nàng, kỳ thật dân phong nam bắc vốn có khác.
Tại Trung Nguyên bên kia,
Nữ tử bị khinh rẻ, cấm đoán đủ điều, nên họa hoằng lắm mấy chục năm mới ra một vị kỳ nữ tử dám nói, dám làm, dám đảm đương.
Tựa như năm đó đại học sĩ Ban Chiêu, con gái tiểu thuyết đại gia Ban Bưu, em của Định Viễn Hầu Ban Siêu và sử học đại gia Ban Cố, đồng tác giả của Hán Thư.
(P/s: ý là gốc đủ to)
Ngược lại, tại đất Thục Sở Việt Ngô bên này thì không hề khắt khe như vậy,
Nữ nhân không chỉ được ăn học sách văn, mà liền luyện tập võ nghệ, bày binh bố trận, thiệp chính quản gia, kinh thương nông tang, thủ công cơ mộc đều có.
Ấy là cái tập tục xưa truyền lại trong hệ tư tưởng, Tần Thủy Hoàng diệt Sở Việt về sau lại đốt sách chôn người, hủy bia đập miếu, nhưng cũng không xóa được.
Nhớ năm đó hai vị Trưng Nữ Vương bao nhiêu oai hùng, anh tư bừng bừng,
Nhân trí thắng qua trăm ngàn anh kiệt trung nguyên, thống lĩnh đồng bào Âu Lạc ngàn ngàn vạn vạn,
Dù sa cơ thất bại song tấm gương còn chiếu sử sách, dù nghiệp xưa Việt Hùng chưa dựng lại được nhưng truyền thống tổ tiên vẫn còn lưu truyền đến nay bất diệt.
Hán triều Lưu thị thì càng là không thèm quản nhiều vì đều tự cho mình là cao sang, không quan tâm đến vùng ‘man hoang’ bên ngoài Trung Nguyên.
Bởi thế mới rước lấy họa Ngũ Hồ xâm lăng, Ngũ Hồ nói cho cùng chính là do Hán triều nuôi ra cả.
Đã muốn thu phục đồng hóa họ, lại cả ngày treo cửa miệng câu ‘không phải tộc ta tất có dị tâm’, khinh rẻ họ là Tây Nhung, Bắc Địch.
Lúc không cần thì đối xử bất công, chèn ép, xem họ như đồ chơi, nô lệ, khiến cho họ nổi giận, nuôi dưỡng thù hận.
Đến lúc cần thì đem mua chuộc bằng vàng bạc, lương thảo, muối sắt, hòa thân, cắt đất, khiến cho họ tham lam, nuôi lòng ganh tỵ.
Khi phái ác đấu nổi loạn cướp bóc thì xua binh trấn áp thô bạo rồi lại rút đi, khiến cho họ càng hiếu chiến, nuôi tính bạo ngược.
Khi có một bộ phận phái hòa bình muốn cải thiện quan hệ thì khinh thường, khiến cho họ không còn hy vọng, nuôi lấy thất vọng.
Dần dà nuôi hổ gây họa.
Mặc dù cũng bị đối xử tương tự, nhưng phương Nam vậy mà cuối cùng lại thành nơi cứu cánh, cảng tránh bão cho Hán tộc khi vó ngựa hồ đạp vào Trung Nguyên.
Ấy là bởi, dân phong vùng Sở Việt, nơi bị người Trung Nguyên xưng là ‘Nam Man’, kỳ thật càng nhiều là chân chất thật thà, lành tính rộng lượng, chứ không dễ giận bạo ngược như người thảo nguyên, cũng không đa đoan mưu kế như người Trung Nguyên.
Đồng bào Bách Việt bị đàn áp là sẽ phản kháng nhưng nếu chịu chung sống hòa bình thì người Việt lại vô cùng tốt bụng rộng rãi, dù cho nghèo khó cũng sẵn sàng nhường cơm sẽ áo, lá rách đùm lá tả tơi chứ không bo bo giữ mình như người phương Bắc.
Đều là loài người như nhau, cùng một dạng mã di truyền, há có thể trời sinh lại khác nhau xa như vậy?
Âu cũng là do ngoại cảnh thôi.
Thứ nhất, đó là vấn đề địa lý, khí hậu.
Bởi có câu quýt sinh ra ở Hoài Nam thì ngọt, đem trồng ở Hoài Bắc thì đắng.
Chỉ là một con sông Hoài liền tạo ra sự khác biệt như thế, huống hồ là vạn dặm Nam Bắc, cách trở đâu chỉ một con lạch trời Trường Giang, một dãy xuyên mây Ngũ Lĩnh.
Trong khi thảo nguyên phương Bắc, sa mạc phương Tây thiếu thốn đủ điều, Trung Nguyên đất chật người đông thế gia chằng chịt, dưỡng thành thói quen bon chen tranh đấu.
Thì ở phương nam, sản vật trù phú, khí hậu ôn hòa.
Mẹ thiên nhiên rộng lượng dưỡng thành con dân cũng chất phác, đôn hậu, ít khi toan tính hại nhau.
Tầng lớp lãnh đạo cũng vì vậy mà không lo kẻ khác lật đổ mình, bản thân cũng không có bao nhiêu tham niệm, cho nên ít khi cưỡng ép giới luật, đặt điều bắt chẹt giới tính, nhân thân của người khác.
Thử nhìn một lượt Trung Nguyên,
Từ Lưu Bang dựng nghiệp đến nay,
Có mấy vị quan lại không dùng Nho dựng nghiệp?
Không lấy công danh hoạn lộ làm vẻ vang cửa nhà?
Không đem thương nghiệp, thủ công, thậm chí y bệnh xem là bần tiện cửu lưu?
Mà ở Kinh Tương, Dương Ngô, Giao Việt đất này,
Rất nhiều thế gia kỳ thật đều là nửa quan nửa thương, thậm chí không thiếu y học thế gia, thủ công nghiệp thế gia, nông học thế gia.
Đây chính là sự khác nhau giữa tư duy làm việc thực tế, phát triển tự mình cùng với tư duy cạnh tranh, giành giật từ người khác.
Thứ hai, sau địa lý thì nói đến yếu tố lịch sử,
Ở thời kỳ Tần mạt - Hán Sở tranh hùng, nho gia đi ra Trương Lương, giúp Lưu Bang diệt Tần, thắng Sở, dựng đại nghiệp nhà Hán.
Tuy cùng với Tiêu Hà, Hàn Tín đều được tôn xưng là Hán Sơ Tam Kiệt, lại rất biết giữ mình, không tham quyền vị, không nhận nhiều thưởng, vô cùng được tâm Cao Đế.
Đến nay Lưu Hầu Trương Tử Phòng đã lần lượt bị hai mươi đời Hán đế lôi ra làm gương để răn dạy quyền thần chống đối hoàng mệnh.
Nho giáo cũng bắt đầu từ Trương Lương mà dựa thế hoàng quyền để phát triển rầm rộ lấn át các học phái khác.
Rồi đến đỉnh cao là thời kỳ Hán Cảnh Đế - Hán Vũ Đế,
Đại nho Đổng Trọng Thư đưa thuyết thiên mệnh vào tư tưởng nho kinh,
Đem đạo đức luân lý chí cao của nho gia từ nhân nghĩa đổi thành trung nghĩa,
Biến tướng phục vụ cũng cố hoàng quyền nên càng được tâm hoàng tộc Lưu thị.
Trong khi đó,
Bách gia chuyên cần lo việc mình, nghiên cứu phát triển tự thân,
Nông làm ruộng, Y chữa bệnh, Công rèn đúc, Mặc cơ quan, Đạo tu hành, Danh nói lý, Âm Dương nói ngũ hành giảng tự nhiên,
Đều không chú trọng ủng hộ hoàng quyền, chỉ hướng về phía khoa học thực dụng hoặc triết học chân lý tiến tới, phục vụ chung cho cả nhân loại.
Hoàng tộc Lưu thị và những thế gia ích kỷ lo sợ sự phát triển của thế gia sẽ san lấp khoảng cách quý bần, đem thế giới đưa đến đại đồng, làm mất đi vị thế thống trị vốn có của họ.
Thế là các đời Hán đế liền minh tôn nho giáo ám diệt bách gia, nhằm cũng cố quyền lực triều đình, mặc kệ nhu cầu của muôn dân.
Nho học thế gia cũng nước lên thì thuyền lên, xưng hùng trung nguyên.
Những gia tộc theo học phái, lưu phái khác liền biến thành bất nhập lưu, bị chèn ép phải bỏ xuống gia học theo nho giáo, hoặc rời đi trung nguyên đến vùng biên thùy khỉ ho cò gáy dựng nghiệp.
Trung Nguyên đã từng tam giáo cửu lưu, trăm nhà đua tiếng, dù gặp cường Tần cũng không khuất phục, vậy mà trãi qua các đời Hán Đế xoay tay xoay cổ liền biến thành độc tôn quý tộc chỉ một âm thanh.
Không còn cạnh tranh, không còn thực nghiệp, tự nhiên có hạn, người ngày một nhiều, sinh không đủ sống, dân chúng kêu than, hỏi ai đáp lại?
Đây chính là cái gọi là ‘vạn mã tề âm cứu khả ai’,
Tức là vạn con ngựa đều im lìm như nhau thật đáng buồn.
Đương nhiên, cũng có thể gọi là ‘Tái ông mất ngựa, biết đâu họa phúc’.
Có mấy đời Hán đế cảm thấy Nho đảng quá thịnh, trong triều bách quan có xu hướng đồng thanh lấn vua thế là nâng đỡ đạo giáo.
Thế nhưng, mấy vị đại lão đời trước của Nho gia cũng không vừa, đem tinh hoa đạo giáo đặc biệt là tư tưởng vô vi cho dung nạp vào nho gia, muốn biến địch nhân thành người mình, chôn xuống bẫy rập cho Lưu thị và có lẽ cả chính nho giáo.
Lưu thị cùng Nho môn đánh nhau loạn xị, hôn chiêu, ngu chiêu, minh thương, ám tiễn ra liên tục.
Ai dè lại làm lợi cho thế gia.
Đến nay, mỗi lần có vị cách mạng minh quân hay cách tân trí sĩ muốn thay đổi hiện trang xã hội, tiếp thu tư tưởng mới làm lợi ích thực tế cho dân,
Thì liền sẽ bị thế gia liên kết lại, dùng câu ‘vô vi mà trị’ để phản đối.
Kỳ thật là ám chỉ quân vương và trí giả quản sự quá nhiều,
vẫn là thay một thái độ ‘an tường’ đi,
‘mắt điếc tai ngơ’ một chút liền tốt,
nếu không liền ‘thay người đi’.
Cho nên cái gọi là nho đảng, thực ra là thế gia đảng vậy!
Chân chính ‘vì dân vì nước’ đại nho đã không còn nhiều.
Học trò nhà nghèo hiểu được cái khó của muôn dân thì bị thế gia vùi dập giữa đường,
Hoặc cúi đầu làm chó săn,
Hoặc cả đời không tiến bước.
Quan lại trong triều và cả địa phương thế là dần dần bị thế gia thay máu.
Lúc này ‘hoàng quyền’ và ‘học vấn’ mới phát hiện ra rằng ‘lợi ích nhóm’ từ lâu trở thành lão đại,
Hai đứa mình đánh đấm cho đã, cuối cùng chỉ có thể làm lão nhị và lão tam.
Nho gia tưởng là trên Lưu thị nửa cơ, kỳ thực so với Lưu thị còn thảm, đã ngắc ngoãi rồi!
Trong khi nho gia đánh mất tự mình thì bách gia bị bức rời khỏi Trung Nguyên tưởng rằng muốn thảm.
Ai ngờ lại phát triển rực rỡ tại các chốn biên hoang,
Bởi đời sống xã hội ở các nơi này còn chưa phân hóa mạnh, truyền thống nhân thiện nguyên thủy còn lưu tồn, tính cách con người thì rộng lượng lại tò mò với điều mới lạ,
Mà bách gia thì chỉ chuyên tâm nghiên cứu tự nhiên, thực hành cái mới chư không giống với ‘Đổng Trọng Thư nho gia’, bắt người ta đặt tổ tiên dưới hoàng quyền và học phái.
Thế là tri thức và văn hóa giao dung rồi nở rộ, nhất là ở vùng Bách Việt và Triều Tiên vì hai nơi này đã truyền thừa văn minh nông nghiệp ổn định từ lâu, căn cơ đã hình thành.
Thế là thực nghiệp, phát triển, trù phú trở thành đặc điểm của những nơi bị gọi là ‘di nhung man địch’ này,
Đối lập với cái gọi là chính thống, văn minh, tinh hoa trung tâm nhưng kỳ thực mục ruỗng, cổ hủ, suy tàn của Trung Nguyên.
Bách gia và các dân tộc bị đàn áp