Cảm ơn Quân Thượng và Koser Arima vì sự ủng hộ của hai bạn!
“One day Ill touch your soil
One day Ill finally know your soul
One day Ill come to you
To say hello...!Vietnam”
- Lời bài hát ‘Bonjour Vietnam’, sáng tác của Marc Lavoine và Yvan Coriat.
(P/s: Chớ nhầm lẫn với bài ‘Hello Vietnam’ của Thomas Hall
Mặc dù dịch qua tiếng Việt đều là ‘Xin chào Việt Nam’
Nhưng bài của Thomas Hall là viết cổ vũ sĩ khí cho lính Mỹ thời thập niên 60, ủng hộ việc Mỹ xâm lược Việt Nam)
“Húúúúúúú!”
Một tiếng hú lớn vang vọng núi rừng.
Bọn người Hoàng Hùng ghìm ngựa, quay mặt về phía tiếng hú ấy thì thấy trên một mỏm đá cao xa xa, một thanh niên mình trần cường tráng đang vẫy tay cười hô:
“Ôi đồng bào ơi! Mọi người lên đường an khang mạnh giỏi nhé”
Bọn người Hoàng Hùng cũng vẫy tay chào:
“Tạm biệt! Hân Đán ở lại mạnh giỏi”
“Làm lụng chuyên cần, sang năm sung túc nhé.
Gặp lại mời ta rượu cần”
Giáp Hân Đán nghe vậy thì tháo dây chuyền trên cổ giơ lên một túi vải nhỏ chỉ chừng hai ngón tay rồi hô to:
“Cảm ơn đồng bào.
Gặp lại cùng uống rượu cần”
Hoàng Hùng mở to hai mắt ngạc nhiên, trong lòng thì cảm thấy rất là ấm áp, đáp:
“Nhớ chăm bón chuyên cần nhé!
Chúc bản Giáp mỗi mùa bội thu thịnh vượng, mọi người giàu sang phúc đức”
“Hẹn gặp lại!”
“Hẹn gặp lại!”
Trao cho nhau những lời chúc phúc, họ quay về với con đường mình đã chọn.
Bọn Hoàng Hùng tiếp tục lao nhanh xuống miền xuôi, để góp chút công sức vào công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách nô đãi, bảo vệ đồng bào khỏi những gian nguy đang rình rập từ phương Bắc.
Còn Giáp Hân Đán thì sẽ quay lại bản làng, dùng món quà của Hoàng Hùng để mang lại ấm no hạnh phúc cho những con người mà chàng đã thề sẽ làm mọi thứ bao gồm cả hy sinh tính mạng để bảo vệ nụ cười trên khuôn mặt họ.
Kẻ ở trên núi, người xuống đồng bằng, ngược xuôi khác hướng nhưng cùng chung hai chữ ‘đồng bào’.
Họ gặp nhau nào phải tình cờ mà chính là duyên trời định, bởi anh em một nhà thì dẫu có cách xa đến mấy cũng sẽ cuốn hút lấy nhau, tựa như những người con xa quê thì luôn nghe thấy quê hương vẫy gọi từ trong tâm thức vậy, chuyện ấy có lẽ rất lâu rất lâu nữa cũng chẵng có thứ khoa học nào giải thích tường tận được.
Nhóm người Hoàng Hùng đã được đón tiếp nồng hậu bởi những đồng bào nơi đây, tựa như anh em một nhà, và dĩ nhiên là Hoàng Hùng cũng chẵng ngần ngại gì mà không chia sẽ với anh em mình những món quà tổ tiên để lại cho họ.
Có lẽ đó cũng là lý do vì sao rùa vàng trao cho hắn những hạt thóc thần kỳ này!
Cao Lỗ nhận được sách thần công trình học bởi ngài muốn xây nên một thành Cổ Loa vững chãi để làm kinh đô cho Âu Lạc, và có lẽ ngài cũng ước nguyện tất cả con dân Âu Lạc sẽ được che chở an lành và sống một cuộc sống ấm cúng hạnh phúc trong những ngôi nhà vững chãi.
Môn Sanh muốn đồng bào mình có thể chủ động nắm giữ năng lực tự vệ trước những kẻ xâm lược hùng mạnh với trang bị tối tân đến từ phương Bắc, nhưng cũng giống với Cao Lỗ, hắn là một người yêu chuộng hòa bình, cho nên hắn nhận được bản vẽ nỏ thần, một thứ vũ khí chuyên dùng để thủ thành.
(P/s: Theo tác thì nỏ thần liên châu nếu có thật thì hẵn là nỏ hạng nặng dùng cho thủ thành.
Từ chi tiết Trọng Thủy phải làm gián điệp để cướp công nghệ tạo nỏ thần thì chứng tỏ là quân Triệu Đà không thể lấy được nỏ thần từ các cuộc giao tranh nơi hoang dã.
Đánh nhau thì tất nhiên có thắng có thua, làm sao có chuyện không thể cướp được dù chỉ vài chiếc nỏ.
Vậy thì khả năng lớn nhất mà tác nghĩ đến là bởi vì tất cả nỏ thần đều nằm trong tường thành Cổ Loa.
Tức nỏ thần là loại nỏ lớn dùng để thủ thành chứ không phải nỏ cầm tay.
Trong truyện sẽ sử dụng giả thiết này)
Lúc Tây Vu Vương tìm được rùa vàng, ngài hẵn là đang tha thiết cầu mong dân Việt có một vì Hùng mới đứng ra đoàn kết tất cả các dân tộc anh em, cùng nhau đánh đuổi kẻ ngoại bang, tái tạo lại bầu không khí hòa bình hạnh phúc thời cổ, vì thế nên Tây Vu Vương nhận được thanh kiếm thần có thể xác định ai là thánh nhân.
Khi Hoàng Hùng tiếp nhận rùa vàng từ tay Ngô Hai thì một bao lụa đẹp màu đất phù sa đỏ đột nhiên xuất hiện trước ngực hắn, dây buộc bao màu bạc kim tròng qua cổ giữ cho bao không rớt xuống.
Rồi một loạt thông tin xuất hiện trong đầu Hoàng Hùng:
Một bao hạt giống F0 gạo ST 2500
Trọng lượng: 2.5 kg
Đặc tính của giống F0:
Sản lượng tùy thuộc vào điều kiện môi trường và phương pháp trồng trọt.
Miễn nhiễm với tất cả bệnh hại và tác động xấu từ môi trường.
Thời gian một vụ 100-110 ngày.
Lưu ý khi trồng giống F0:
Hạt giống F0 có năng suất gấp 50-60 lần bình thường nhằm mục đích nhanh chóng tạo ra giống F1 vĩnh hằng;
Do đó sau vụ đầu tiên thì sản lượng sẽ hạ xuống 50 đến 60 lần, nếu như hạ xuống thấp hơn thì mau chóng báo cáo với Viện nghiên cứu nông nghiệp gần nhất.
Hạt giống F0 có năng lực thích nghi cao với hoàn cảnh để tự điều chỉnh mã di truyền;
Do đó, tính chất của giống vĩnh hằng F1 phụ thuộc vào điều kiện trồng trọt của hạt giống F0.
Đặc tính của giống vĩnh hằng F1:
Năng lực thích nghi với điều kiện môi trường được thừa kế từ giống F0, không nên thay đổi môi trường.
Năng lực chống chọi bệnh hại, côn trùng cực cao, nắm giữ mã kháng chịu hơn 3 tỷ loại bệnh hại và hơn 1 triệu loại bệnh trùng.
Trồng dưới 3 vụ/ 1 năm thì giống F1 sẽ tự động thu hút dinh dưỡng và linh khí đất trời để cải thiện hoàn cảnh và chất lượng giống.
Sản lượng tối đa của giống F1:
900 kg cấp hai tiên gạo/ ha,
Yêu cầu trồng tại tiên thổ, dùng tiên thủy để tưới tiêu.
Sản lượng tối thiểu của giống F1:
7000 kg gạo thường giàu dinh dưỡng/ ha,
Không yêu cầu điều kiện thổ nhưỡng, cần cung cấp đầy đủ nước.
Lưu ý khi trồng giống F1:
Sau khi đạt được giống F1, để bảo vệ điều kiện tự nhiên và chất lượng của giống F1, khuyến cáo người nông dân không trồng nhiều hơn 3 vụ F1/ 1 năm.
Việc trồng nhiều hơn 3 vụ F1/ 1 năm sẽ làm suy yếu chất lượng môi trường và làm thoái hóa giống lúa.
Nhằm cưỡng chế ngăn chặn việc khai thác môi trường quá mức, mã tự hủy đã được cấy vào bộ mã di truyền và sẽ kích hoạt khi giống thoái hóa đến dời F3.
Ghi chú:
ST2500 là giống lúa tiên cấp thích hợp với mọi loại hoàn cảnh, là kết tinh khoa học kỹ thuật của tiến sỹ nông học Hồ Quang và cộng sự tại Viện nghiên cứu giống lúa tỉnh Sóc Trăng, Lạc Tiên quốc.
(P/s: ST25 là tiến sĩ Hồ Quang Cua nhá.
ST2500 thì tác thích chém thế nào tác chém.
Phản đối đồng ý gì cũng không cần giơ tay, vì tác không thấy)
Thông tin không nhiều nhưng vấn đề là Hoàng Hùng hầu như không hiểu, đặc biệt là những điểm quan trọng như sản lượng.
Phải đến tối ngày thứ hai sau khi rời đi hang động, cũng là buổi tối trước khi tới bản Giáp, thì thế giới ý chí mới xuất hiện trở lại để giảng giải cho Hoàng Hùng.
Dựa theo thế giới ý chí thì vùng rừng mà nhóm Hoàng Hùng vừa đi qua hẵn là di tích của một lãnh địa tư nhân thuộc Lạc Tiên quốc, thế lực đứng sau khí vận chi tử tiền nhiệm.
Bởi vì Lạc Tiên quốc có bộ luật tự do nhân quyền, trong đó có đạo luật ngăn cấm việc giám sát địa phương tư ẩn, tôn trọng quyền riêng tư cá nhân, nên rất nhiều phương pháp đã được tạo ra nhằm ngăn cản bất kỳ một lực lượng nào theo dõi bất hợp pháp, thế giới ý chí cũng bị cản ở ngoài.
Rùa vàng kia thì là chìa khóa kết nối với một không gian ẩn mật thuộc vào kho tàng đặc biệt của Lạc Tiên quốc, nơi lưu trữ những phần thưởng cho người hữu duyên.
Tại thời kỳ hưng thịnh của thế giới, rất nhiều rùa vàng, cóc vàng, rồng vàng, trâu vàng, vân vân, được khí vận chi tử tiền nhiệm vung rãi khắp thế giới, tìm kiếm người có đủ đức và tài để góp phần bồi dưỡng họ lớn mạnh lên, trở thành lực lượng trụ cột của thế giới.
Phần thưởng được ban tặng sẽ không quá cao quý cũng không quá thô lậu, mà sẽ cực kỳ phù hợp với tâm ý của người được chọn, để tránh ảnh hưởng tới tâm tính của họ.
Về phần những thông tin kỹ thuật của loại lúa ST2500 thì sau một hồi trao đổi với thế giới ý chí, Hoàng Hùng đạt được một kết luận vô cùng thỏa mãn:
Sản lượng tối thiểu gấp đôi giống lúa tốt nhất đang trồng tại Kinh Tương, vốn là nơi có sản lượng lương thực cao nhất trên phạm vi quản hạt của Hán triều.
Càng để cho người vui mừng là sản lượng lúa ở Kinh Tương có thể tốt như vậy là bởi điều kiện tự nhiên nơi đó quá mức trù phú, nhưng sản lượng tối thiểu của ST2500 lại là khi đem trồng ở những nơi tự nhiên khắc nghiệt như đá sỏi sa mạc, vân vân.
Hoàng Hùng không biết đem giống lúa này trồng ở gần di tích nọ có thể sinh ra tiên gạo hay không nhưng hắn biết là nếu đem giống lúa này trồng tại đồng bằng Nhị Hà thì không bao lâu sau, quốc lực của người Việt tính riêng về mặt lương thảo sẽ vượt qua người Hán.
Về phần nhân rộng ra Kinh Sở, Dương Ngô, Thục Xuyên thì phải đợi tương lai xác định chủ quyền lãnh thổ ở những nơi này đã rồi tính tiếp.
Gói thóc giống F0 mà rùa vàng trao cho Hoàng Hùng chỉ có 5 cân (2.5kg) thôi, trước hết nhân rộng F1 tại đất Âu Lạc đã, còn lại tính sau.
(P/s: quy đổi và thông tin thêm về sản lượng lúa gạo đương thời nằm ở cuối chương)
Trước khi Hoàng Hùng nhận được bao thóc thì Ngô Hai đã đạt được một viên ngọc quý có thể giúp cho người nắm giữ sống hẵn trong nước, tựa như tỵ thủy châu của vua Thủy Tề trong truyền thuyết.
Lý giải cho việc này, Hoàng Hùng cho rằng là vì cuộc sống sông nước thuở còn thơ bé có ảnh hưởng quá lớn đối với Ngô Hai.
Người được cầm vào rùa vàng tiếp theo là Lê Tư, hắn nhận được một bao kiếm mà dựa theo hắn mô tả là sẽ tìm được thành kiếm báu bị thất lạc của Tây Vu Vương ngày xưa.
Với sự hiểu biết của Hoàng Hùng với Lê Tư thì lão này có khả năng rất cao là hy vọng thông qua chuyện này để chứng minh tư chất của Hoàng Hùng xứng đáng với vị trí Hùng.
Nếu thật như vậy thì hắn bó tay luôn, lãng phí mất một lần sử dụng cuối cùng.
Đúng vậy, cuối cùng!
Lúc đầu khi Ngô Hai và Hoàng Hùng sử dụng thì bởi quá chú tâm vào rùa vàng nên bọn họ không để ý chứ thực ra màu nước trong ao đã trở nên trong dần, rồi cho đến khi Lê Tư cầm trong tay bao kiếm thần thì nước ao trở nên trong vắt thấy đáy, thậm chí mái ngọc trên đầu cũng trở nên ảm đạm mấy phần, khiến cho không gian trong động tối hẳn đi.
Những người tiếp theo tranh nhau thử mọi cách đều chẵng còn nhận được gì từ rùa vàng nữa.
Thậm chí rùa vàng còn trở nên xám xịt như đá.
Đến khi Hoàng Hùng hỏi thì thế giới ý chí giải thích là vì chìa khóa đã rơi vào ngủ say.
Những chìa khóa này sử dụng năng lượng của môi trường xung quanh để liên kết với không gian kho tàng, tiêu hao bao nhiêu năng lượng thì tùy thuộc vào vật được mang ra.
Phương pháp này được tạo ra để nhắc nhở người hữu duyên về việc chủ động gìn giữ và cải thiện môi trường của thế giới.
Thuở trước khi thế giới này còn là thế giới cấp 1 thì linh khí và tiên khí rất dồi dào, sinh linh vì muốn đạt được ân huệ càng nhiều nên bảo vệ môi trường rất cẩn thận; theo thế giới ý chí thì đa số thế lực đạt được những chìa khóa này sẽ tạo dựng nên một tòa thiên nhiên thánh địa để cung cấp phụng dưỡng chìa khóa hòng sản sinh lợi ích lâu dài.
Có điều bây giờ thế giới bị giáng cấp thành ngụy giới, thời thế đổi thay nên dù nhóm Hoàng Hùng chỉ lấy được mấy món đồ ‘bình thường không có gì lạ’ cũng đã hao hết năng lượng mà di tích nọ tích trữ được, có lẽ phải cả trăm năm nữa thì rùa đá mới trở lại thành rùa vàng.
Về phần vị con cháu của Tây Vu Vương trong suy đoán của nhóm Hoàng Hùng, người đã mang theo đám Huyền Kính Ty đi vào di tích cổ rồi âm chết bọn hắn tại đó, thì Hoàng Hùng đoán là người ấy đã không sử dụng rùa vàng.
Hắn đoán như thế từ việc nhóm người mình nhận được tổng cộng 3 món quà từ rùa vàng thì ao nước tiên nọ liền hóa thành nước trong, mất đi vẻ thần kỳ vốn có.
Lần đầu Cao Lỗ và Môn Sanh khai quật được rùa vàng tại nước bùn hồ Thủy Quân thì rất khó nói chắc vì chẵng biết rùa vàng ở đó từ lúc nào, có ai sử dụng chưa, cách bao lâu.
Nhưng những sự kiện sau này thì có thể tạm dùng làm chứng cứ.
Thời điểm Tây Vu Vương mưu khởi nghĩa cách thời đại chiến tranh Tần Việt nổ ra gần cả trăm năm, mà Tây Vu Vương chỉ dùng rùa vàng được mỗi 1 lần.
Lại nhẫm tính tiếp thì từ thời Tây Vu Vương đến nay cũng ngót nghét đã gần 300 năm.
Vậy có phải là cho dù có động tiên tích xúc tiên khí đất trời thì cũng phải cả trăm năm mới dùng rùa vàng được 1 lần?!
Đương nhiên còn có các khả năng khác.
Chẵng hạn như Tây Vu Vương ngày trước không muốn lộ ra bí mật của rùa vàng nên chỉ dùng cho mình rồi đem giấu tiếp, tích xúc tiên khí cho con cháu ngày sau sử dụng.
Bây giờ muốn chứng thực thì chỉ có thể chờ gặp được vị con cháu của Tây Vu Vương trong suy đoán.
Thực ra thì Hoàng Hùng càng hy vọng vị con cháu của Tây Vu Vương trong suy đoán cũng nắm giữ một thần vật nào đó, bởi như vậy thì lực lượng phe ta sẽ tăng lên, cơ hội thắng lợi sẽ càng nhiều.
- ---------------
Có những người một lần tha hương rồi không bao giờ còn được cơ hội quay trở về, cho đến lúc chết vẫn thèm được bước trên mảnh đất ngày xưa, ngửi hương khế hương bưởi sau vườn, đứng trong nắng ả mà nghe tiếng ò ó, nằm nghiêng trên võng mà ngẫm điệu ầu ơ.
Có những người từ khi sinh ra đã ở nơi xứ lạ, cả một quãng trời thơ bé chỉ được biết về quê cha đất tổ qua những lời kể, câu văn, đến khi trưởng thành cũng chưa từng được một lần nếm trãi vị ngọt bùi của quê hương, khát khao lắm những câu dân ca trong lời ru của mẹ.
Ánh hoàng hôn đỏ tía rãi bình đạm lên những mái tranh nghèo,
Khói bếp sương mây nhuộm vào gió nồm nghi ngút vị đồng quê,
Xa xa văng vẳng tiếng sáo trúc của lũ mục đồng đang cười nói lùa trâu về đàn,
Một đôi cò trắng bay vút lên trời rồi liệng về phía cuối tầm mắt, nơi có những cánh đồng lúa nước đang bắt đầu cấy.
Những người nông dân chân đất vừa kết thúc một ngày làm việc chăm chỉ vất vã, đang hát đối với nhau trên đường về nhà.
Sáu quái kẻ thì nhắm mắt hưởng thụ cảm giác an tường kỳ dịu, người thì chăm chú nhìn cảnh tưởng thân thuộc quê mình, còn có Nguyễn Bảy không biết tìm ở đâu ra mấy trái khế, đang núp ở sau lén lút ăn một mình.
Mỗi người có một kiểu thèm quê riêng, nhưng tựu chung là đều muốn hít lấy hít để bầu không khí của quê hương.
Không khí ở đâu cũng vậy thôi, nhưng ở quê thì lại khác.
Bởi nó còn mang theo linh hồn của dân tộc, mùi hương quê.
Chỉ có những người từng đi xa quê và nhớ quê da diết thì mới nhận ra được sự khác lạ