Kích thích quỷ hồn hay còn được gọi dưới một cái tên mĩ miều hơn là Vũ Điệu Quỷ, là một loại tà thuật bắt nguồn từ phía Tây. Nó xuất hiện ở phủ lộ Bình An lần đầu tiên cách đây khoảng năm trăm năm. Khi đó có một vị thầy nuôi quỷ đã vượt núi cao và rừng sâu để tìm kiếm những loại quỷ hồn hùng mạnh nhất. Nhưng cuối cùng thứ ông ta mang về lại là một vài loại tà thuật có thể tăng cường sức mạnh quỷ hồn. Mấy trăm năm sau bí thuật của ông ta vẫn được truyền lưu rộng rãi trong giới thợ nuôi quỷ nhờ tính thực dụng của nó. Vũ Điệu Quỷ là một trong những bí thuật khó học nhất.
Người thanh niên gọi Lê Tấn cũng không trả lời con quỷ, chỉ quát lớn một tiếng: “Giết!” Đám quỷ hồn nghe được lệnh, ào ào lao vào Hà Linh và con quỷ. Bởi vì trúng phải chú thuật của Lê Tấn, Hà Linh chẳng thể thấy được gì. Cô chỉ cảm giác từng luồng gió lạnh cứ xoáy vào mình mang theo hơi thở tanh tưởi của âm hồn. Cô thậm chí còn không biết lúc nào đám quỷ sẽ xâm chiếm cô, hoặc xé xác cô ra. Lúc này cô chỉ biết ôm hai vai run rẩy.
Lúc này cô chợt nghe giọng của Quỷ vương vang lên: “Quỷ vương có lệnh, gọi về ba ngàn đêm tối.” Rồi cô lại thấy được thanh đao trong tay quỷ vương sáng lên một màu tím kỳ dị, đôi mắt trên chuôi đao mở to. Xung quanh Hà Linh, từng cái âm hồn bắt đầu hiện ra. Sau đó chúng bị những tia sáng màu tím từ thanh đao chiếu vào. Những tia sáng ấy hóa thành những cái lồng hình trụ nhốt đám âm hồn lại.
Khuôn mặt của Lê Tấn hiện lên vẻ sợ hãi. Gã đã đoán được con quỷ đẹp trai có hai cái sừng là ai. Chỉ có quỷ vương mới có thể dễ dàng loại bỏ đám quỷ mà gã nuôi. Lúc này chúng đã hoàn toàn bị cắt đứt liên lạc với gã. Lê Tấn không thể điều khiển bất cứ một con nào. Với một thợ nuôi quỷ, một khi không còn đám quỷ tay sai , sức mạnh của bọn họ cũng chả khác người bình thường là mấy. Quỷ vương lại vung đao lên,
“Quỷ vương có lệnh, gọi về ngọn lửa địa ngục.”
Đất dưới chân bọn họ đỏ lên rồi sôi lên sùng sục. Lê Tấn lùi lại một bước. Gã sợ bị ngọn lửa lan đến. Ai ngờ ngọn lửa cũng không tấn côn ai cả. Nó chỉ đốt sạch sẽ đám âm hồn trong lồng. Chúng kêu lên thảm thiết, vùng vẫy, cựa quậy nhưng chẳng ai có thể giúp chúng. Cuối cùng đám âm hồn bị cháy rụi, đến một hạt bụi cũng chẳng còn vương lại dương gian.
Quỷ vương bước đến trước mặt Lê Tấn. Thanh đao trong tay nó vung lên. Hà Linh kêu lên: “Đừng giết hắn.”
Quỷ vương hỏi: “Tại sao?”
-“Lúc nãy tuy hắn cố ý muốn giết chúng ta, nhưng chúng ta còn sống. Chúng ta tha mạng cho hắn đi. Với lại giết người xong anh không sợ bị quả báo sao?”
-
-“Nếu có thể giải phóng hết những linh hồn bị nô lệ, tôi chấp nhận chịu đựng hết thảy quả báo.” Thanh đao trên tay quỷ vương chém xuống. Bỗng nhiên một tia sét lóe lên bay thẳng vào người quỷ vương. Quỷ vương buộc phải đưa thanh đao lên ngăn cản. Khuôn mặt đẹp như thiên thần của nó giật giật, nhăn nhó trông thật đáng sợ. Có vẻ tia sét khiến nó đau đớn lắm. Quỷ vương gào lên: “Kẻ nào dám đánh lén trẫm?”
Hà Linh nhìn ra phía sau. Trên cành cây bên hàng rào, có một nam một nữ đang đứng. Cô gái nhảy xuống đất tiến gần về phía quỷ vương. Trông cô còn trẻ lắm. Mái tóc đen dài cuộn sau gáy, làn da trắng nõn nà với đôi mắt được che kín bằng một miếng vải mỏng. Bộ quần áo đen bó sát người để lộ ra một thân hình gợi cảm. Cô tháo chiếc áo choàng màu đỏ sẫm sau người xuống, để lộ ra một chiếc nỏ lớn. Quỷ vương nhìn cây nỏ trên tay cô bỗng sợ hãi thốt lên: “Nỏ thần kim quy!”
Đó là một thanh nỏ trong truyền thuyết. Hà Linh cũng tưởng nó không có thật cho đến hôm nay. Cô nhìn cây nỏ một cách chăm chú. Thoạt trông cũng bình thường, cũng có thân và hai cánh như bao cây nỏ khác. Ngoài việc hai cánh nỏ hơi dày hơn bình thường, thứ khiến người ta nhận ra nó là ánh sáng màu vàng kim lập lòe phát ra từ trên thân.
Trong truyền thuyết, cõi đất Âu Lạc ngày xưa có một ông vua tên là An Dương Vương. Vua An Dương Vương lại là người chăm lo việc triều chính. Từ khi bờ cõi mở rộng, vua nghĩ đến việc xây dựng và phòng thủ đất nước, -"Phải có một tòa thành kiên cố thì mới giữ được giang sơn xã tắc lâu dài".
Nghĩ vậy, vua sai người đi chọn đất đặt kinh đô và ra lệnh cho đinh tráng cả nước phải lần lượt về phục dịch việc xây thành. Nhưng điều làm ọi người ngạc nhiên là thành hễ xây lên cao quá đầu người, thì chỉ trong một đêm tự nhiên đổ sụp. Xây đi xây lại đã mươi bận, lớp dân phu này về có lớp khác đến, ấy thế mà thành vẫn không xong.
Chắc là do trời làm, vua nghe lời các quan, bèn sai lập đàn rồi tự mình trai giới cầu cúng. Sau mấy ngày đêm, một buổi sáng bỗng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, mặc một bộ đạo bào từ biển đi vào báo cho vua biết là sẽ có thần Kim Quy là sứ giả của thần Thanh Giang đến giúp vua xây thành. Quả nhiên sáng hôm sau trong khi mọi người chầu chực ở Cửa Đông thì trên mặt nước, thần bỗng xuất hiện dưới dạng mạo của một con rùa vàng to lớn rực rỡ. Đặt chân lên đất, rùa liền tự xưng là sứ giả Thanh Giang. Thị vệ đã chực sẵn bèn đem đến một mâm vàng cho rùa trèo lên. Gặp vua, thần Kim Quy cho biết:
- Thành sở dĩ xây lên đổ xuống là vì có nhiều yêu quái phá phách. Chúng nó biến hóa thiên hình vạng trạng. Thấy nhà vua có lòng thành, tôi sẽ vì nhà vua tìm cách diệt trừ.
Chẳng bao lâu nhờ phép thần thông của thần Kim Quy, yêu quái bị tiêu diệt không còn một mống. Thần còn ngày đêm bảo cách cho nhà vua xây thành. Để bảo vệ hoàng cung, thành được đắp nhiều lớp vòng quanh theo lối trôn ốc chưa đâu có. Vì thế người ta gọi là Loa thành (thành ốc). Kẻ địch dù có vượt qua cửa thành này cũng phải trả giá đắt nếu muốn lọt vào tận cung vua. Chỉ trong vòng nửa tháng, tòa thành đồ sộ xây xong. Vua An Dương Vương mừng rỡ, đãi thần rất mực cung kính. Trước khi thần từ biệt ra về, vua nói:
Cảm tạ thần linh đã giúp cho việc diệt trừ yêu quái, xây xong tòa thành vững vàng này. Dân Âu-lạc đời đời không dám quên