Hồi đó Minh Khánh còn bé lắm, mới học bắt ma được hơn một năm thôi. Nghe chuyện của ông Tư Thồn, Minh Khánh đâm ra sợ. Hắn nép hẳn vào bên người sư phụ. Bên cạnh Minh Khánh, mặt thằng bé dẫn đường đã xanh mét như tàu lá chuối, xem chừng sắp tè ra quần đến nơi. Thấy cu cậu sợ run lên, sư phụ Văn Sơn cho thằng bé một đồng tiền, bảo nó đi về. Rồi ông mở tay nải, lấy giấy bút ra. Minh Khánh liền xung phong mài mực.
Mực là một trong bốn bảo bối của văn phòng, gọi là “văn phòng tứ bảo” bao gồm mực giấy, bút, nghiên. Bốn thứ này khá đắt giá vì nó là công cụ để học tập, truyền đạt và thi cử của tầng lớp “có học”, từ những ông đồ đến quan tể tướng. Mực có hai loại, mực thỏi và mực nước. Thường thì ở nhà, sư phụ thường dùng mực nước sau đó mới mài một ít mực thỏi để tăng độ sánh thôi. Thế nhưng đi xa thì ông thường mang nguyên cả thỏi. Viên mực này hẳn là vị quan nào biếu ông, lúc Minh Khánh mài còn ngửi thấy hương thơm. Giống như các nhà Nho, bút mực giấy cũng là một phần không thể thiếu trong cuộc sống thầy trừ tà. Đơn giản bởi vì đó là một công cụ tiện lợi để luyện vẽ bùa. Không ai mới bắt đầu học vẽ bùa đã dùng kim sa và giấy vàng cả.
Như Minh Khánh , để vẽ được cái bùa đầu tiên đã phải học viết chữ, vẽ tranh ròng rã ba năm. Đó là khoảng thời gian khổ cực nhất trong cuộc đời đi bắt ma của hắn. Sau này sư phụ mới giải thích rằng đó là để rèn luyện tâm tính và khiếu thẩm mỹ cho thầy trừ tà trước khi vẽ bùa. So với những người tu đạo khác, việc vẽ bùa chưa bao giờ là chuyện đơn giản với thầy trừ tà. Đơn giản bởi lẽ đó là vũ khí của thầy trừ tà để chiến đấu và bảo vệ mạng sống. Với người khác, vẽ bùa có thể lỡ vẽ xiên xẹo một nét, uy lực giảm đi một hai thành vẫn không sao. Còn với thầy trừ tà, một hai thành uy lực thiếu đi đó có thể biến lá bùa đó thành lá bùa đòi mạng . Giống như binh sĩ lên chiến trường, gươm đao phải sắc bén, lá bùa của thầy trừ ta luôn phải phát huy đầy đủ một trăm phần công lực. Đó là do kinh nghiệm của xương và máu trong suốt cuộc chiến đấu dai dẳng hàng trăm năm trước truyền lại và hun đúc thành.
Thế nhưng hôm đó, Minh Khánh biết sư phụ Lê Văn Sơn chắc là không định vẽ bùa. Bởi vì hắn thấy ông dùng giấy Tuyên “thục chỉ”. Giấy Tuyên có hai loại. Loại “sinh chỉ” là giấy sống, chưa nhúng phèn, chuyên dùng trong thư pháp. Loại “thục chỉ” là giấy đã nhúng phèn, dùng trong hội họa. Sư phụ bắt đầu yêu cầu ông Tư Thồn nhớ lại con ma, cố gắng miêu tả hình dạng của nó để sư phụ vẽ lên giấy. Từ ánh mắt, đến cái miệng cười của nó, tất cả đều được sư phụ vẽ thật sống động. Sau hơn chục tờ giấy vứt đi vì ông Tư Thồn bảo không giống, cuối cùng sư phụ cũng vẽ được một bức mà được ông Tư gật đầu.
Trong khi sư vụ yên lặng ngắm bức tranh, Minh Khánh cũng giả đò nhìn theo, mặc dù hắn cũng không hiểu sư phụ làm thế có mục đích gì. Sau nửa canh giờ, hai thầy trò chào từ biệt ông Tư để đi bắt ma. Trước khi đi, sư phụ Lê Văn Sơn có nói với ông Tư rằng trong chuyến đò hôm ấy, ông Tư đã lây dính khí âm của con ma nên có thể mở ra Âm nhãn. Hiện tại nếu ông muốn làm thầy trừ tà thì có thể đi lên núi Hoàng Lĩnh hoặc sang đất Nam Lan để học cách bắt ma. Rồi sư phụ cho ông Tư Thồn một lá bùa để phòng thân vì những người có dính khí âm như ông hay bị ma làm hại. Ông Tư cảm ơn sư phụ rối rít, lễ phép tiễn thầy trò ra khỏi nhà.
Sau khi gặp ông Tư rồi, Minh Khánh tưởng sư phụ Lê Văn Sơn sẽ dẫn hắn ra bờ sông xem con ma, thế nhưng ông lại đi ngược vào trong làng. Minh Khánh thấy sư phụ hỏi nhà lý trưởng. Lý trưởng chắc mới ở đám tang thầy họ Phạm về, hơi thở vẫn còn mùi rượu nồng nặc. Sư phụ đưa bức vẽ con ma cho lý trưởng, nhờ hắn lên huyện xã xem trong vùng có ai mất tích mà mặt mũi giống thế này không. Lý trưởng thấy hình vẽ con ma thì