Anh Ba Kho nằm một mạch đến tận trưa thì Xồm Bánh Ú đến nhà. Gã còn xách theo con gà đưa cho chị Ba bảo để tẩm bổ cho anh. Chị chối mấy lần không được nên cũng đành phải nhận. Thế rồi gã vào trong nhà nói chuyện với anh Ba. Không biết hai người nói chuyện gì mà anh Ba Kho sợ đến xanh mặt. Cho đến khi gã Xồm Bánh Ú nói chuyện xong ra về một lúc lâu anh vẫn ngồi đờ ra như khúc gỗ. Trưa hôm ấy anh Ba Kho bỏ cơm, chị Ba hỏi gì cũng chỉ ậm à ậm ờ cho qua chuyện. Thế rồi anh dặn chi Ba xuống ngôi chùa thiêng nhất vùng ở làng dưới mời sư thầy về làm lễ. Chị Ba cũng chả hiểu gì nhưng vẫn làm theo lời chồng.
Hai ngôi làng cách nhau không xa, chỉ mất khoảng một canh giờ là tới. Sư thầy cũng biết tiếng anh Ba nên cũng không làm khó dễ gì, chờ chị cúng tiền hương đèn xong là theo chị về nhà. Thấy sư thầy anh Ba Kho mừng đến chảy nước mắt. Anh bắt đầu kể cho thầy và vợ nghe câu chuyện mấy hôm rồi. Vợ anh Ba cũng sợ lắm, hướng bốn phương khấn rối rít. Sư thầy thì yên lặng suy nghĩ. Một lúc sau, sư thầy yêu cầu vợ anh bar a chợ mua lễ cúng để sư thầy làm lễ giải hạn. Tối hôm đó, ăn cơm xong, sư thầy bắt đầu bày bàn thờ ra. Lễ cúng rất dài, vợ chồng anh Ba Kho cũng chả hiểu gì, chỉ biết bò lổm ngổm khấn theo thầy. Lễ cúng diễn ra từ lúc chập choạng tối đến tận nửa đêm. Cả sư thầy lẫn vợ chồng anh đều mệt phờ ra. Vợ anh biết ý liền lấy nồi cháo gà nấu sẵn lúc tối ra mời thầy.
Anh Ba Kho đã đỡ nhiều. Mặc dù anh không biết cúng giải hạn có được việc không nhưng nó khiến anh cảm thấy yên tâm hơn phần nào. Anh ăn ba bát cháo xong, đang đinh đi dọn giường cho sư thầy ngủ thì Bảy Dậu tới. Khuôn mặt gã có phần hốt hoảng: “Anh Ba ơi, bến tàu xảy ra chuyện rồi.” Anh Ba Kho rụng rời cả chân tay nhưng vẫn cố hỏi lại bằng một cái giọng trấn tĩnh: “Có chuyện gì thế?” Bảy Dậu trả lời: “Đệ không thấy mấy người chuyên canh gã ở cái kho kia đâu.”
Anh Ba Kho hỏi lại, giọng anh run run: “Cái kho nào?”
Bảy Dậu dường như không để ý tới khuôn mặt thất thần của anh Ba Kho, gã giải thích: “Là cái kho mà huynh bảo bọn đệ canh giữ bảy cái xác chết đó.” Anh Ba Kho ngồi phịch xuống ghế, lẩm bẩm hỏi lại: “Chuyện xảy ra lúc nào?” Bảy Dậu trả lời: “Hồi nãy đệ với Xồm Bánh Ú ra đưa cơm cho mấy người gác mà chẳng thấy một ai. Hai người bọn đệ tìm khắp xung quanh, gào khản cả cổ họng mà vẫn chẳng có ai đáp lời.”
Anh Ba Kho trong thâm tâm cảm thấy mấy người kia chỉ sợ lành ít dữ nhiều. Sau một hồi suy tính, anh cảm thấy không thể bỏ mặc bọn họ. Một phần do mấy người dân tráng đó cùng anh quen biết đã lâu, việc canh giữ nhà kho là anh ra lệnh cho họ, một phần nhân có sư thầy ở đây, anh cũng muốn biết thứ đó là cái gì? Thế là anh Ba Kho bảo Bảy Dậu đi tập hợp anh em lại, càng đông càng tốt, nửa canh giờ sau gặp nhau ở gốc đa chỗ miếu thờ giữa làng. Bảy Dậu nhận lệnh liền đi ngay. Anh Ba Kho liền nói chuyện với sư thầy. Sư thầy cũng không phản đối, chỉ bảo anh: “Đến lúc gặp thứ đó, thí chủ và mọi người phải nghe lệnh của bần tăng.” Anh Ba Kho gật đầu rối rít.
Nửa canh giờ sau, ở chỗ ngôi miếu giữa làng, hơn hai mươi người dân tráng tụ lại một chỗ. Anh Ba Kho phổ biến công việc xong thì đoàn người kéo nhau ra bến tàu. Bến tàu vào giữa đêm khuya vắng ngắt. Những kho hàng to lớn nằm hai bên đường khiến con đường dường như càng chật hẹp và âm u. Trời không có gió. Không gian yên lặng đến mức có thể nghe được nhịp thở của người bên cạnh. Cũng chẳng hiểu vì sao mà mọi người không ai nói với nhau một câu nào. Dường như việc ở xóm Thượng đã đến tai mọi người. Có lẽ ngoại trừ sư thầy thì mọi người trong đội dân tráng đều sợ hãi. Anh Ba Kho thấy mấy người đi bên cạnh anh lau mồ hôi liên tục.