Lại nói, nghe tiếng ca ngụ ý thâm sâu, Giang Phong truyền cho thuyền chèo về hướng đó.
Từ phía xa xa, một chiếc thuyền câu đang lững lờ trôi trên sông.
Ngư phủ tay cầm cần câu, vừa câu cá vừa nghêu ngao hát.
Thấy thuyền của Giang Phong chèo đến gần, lão ngư lại ngâm nga :
“Gió bấc thổi mấy làn vi vút,
Mưa tuyết bay, bay trút tơi bời.
Biên dân khốn khó bao đời,
Nào ai biết nỗi ngậm ngùi gian nan.
Nay giặc đến nhà tan cửa nát,
Dắt tay nhau rời bỏ xóm thôn.
Rưng rưng dõi hướng về đông,
Vua ta sớm phái đại quân diệt thù.”
Văn thơ Giang Phong cũng biết chút ít.
Giang Phong ngẫm nghĩ giây lát, rồi cũng ngâm :
“Ở phương đông thái dương đã hiện,
Cơn mưa này đến ngọ tạnh rồi.
Đôi bờ cành lá tốt tươi,
Nguyên Giang khói bếp khắp nơi lững lờ.”
Thuyền đến gần, lão ngư ngẩng lên nhìn về phương đông, hỏi :
- Thái dương sắp hiện rồi chăng ?
Giang Phong đáp :
- Sau cơn mưa trời lại sáng thôi.
Giang Phong ngắm nhìn lão ngư một lượt.
Lão tuổi quá năm mươi, râu tóc đã điểm bạc, vận bộ trường bào bằng vải thô nhưng gọn gàng, ánh mắt tinh anh duệ trí.
Giang Phong vòng tay hỏi :
- Tiên sinh xưng hô thế nào ?
Lão ngư đáp :
- Lão là ngư dân ở vùng này.
Tổ tiên lão bao đời nay vẫn sinh sống ở đây, nên lấy tên sông làm họ.
Lão gọi là Nguyên Phương.
Giang Phong khẽ mỉm cười, nói :
- Tiên sinh chắc đã biết ta là ai rồi, không cần phải giới thiệu nữa.
Nếu như tiên sinh cũng lo cho vận nước, mời tiên sinh lên thuyền ta cùng đàm đạo.
Lão Nguyên Phương nhìn Giang Phong, ánh mắt sáng rực, rồi cuộn dây câu, cặp thuyền câu vào thuyền lớn, sau đó lên thuyền.
Mời ngồi đâu vào đấy, lão Nguyên Phương hỏi ngay :
- Man binh đại cử nhập xâm, chẳng hay đại nhân đã có cách nào chống giặc chưa ?
Giang Phong ngẫm nghĩ giây lát, nói :
- Giặc thế mạnh, quân ta tạm thời giữ thế phòng ngự, tránh trực tiếp giao chiến với đại quân của giặc.
Ta đã truyền lệnh phá đường, trước mắt có thể ngăn được bước tiến của giặc một thời gian.
Đồng thời, sẽ phái những toán quân nhỏ thuận theo Nguyên Giang xâm nhập quấy nhiễu hậu phương của giặc.
Chỉ cần cắt đứt được đường vận lương của giặc thì giặc không cần đánh cũng phải rút lui.
Lão Nguyên Phương gật gù nói :
- Kế hay.
Nhưng theo lão được biết, Man binh hiện vẫn còn 10 chiếc Lâu thuyền và 50 chiếc Đại thuyền, trú đóng ở Phong Khê Thành.
Đại nhân cũng cần đề phòng giặc dùng thủy quân tấn công.
Giang Phong nói :
- Chính vì đề phòng thủy quân của giặc nên ta mới phải truyền lệnh phá đường đó.
Ban đầu Vương Đại tướng quân đề nghị cho quân mai phục ở các hẻm núi, phục kích quân giặc.
Nhưng vì thiếu tướng lĩnh thống quân, ta đành phải cho phá đường ngăn giặc, và để Vương Đại tướng quân phòng ngự mặt Nguyên Giang.
Quân đội của Giang Phong phát triển quá nhanh nên thiếu tướng lĩnh trầm trọng.
Đến giờ đó vẫn là vấn đề khiến Giang Phong đau đầu.
Toàn quân chỉ có duy nhất Vương Đại tướng quân là có thể thống quân, tối đa 1 sư.
Nhưng dưới sư là vệ thì không có tướng quân thống lĩnh.
Biên chế quân đội hiện giờ chỉ có đội, đoàn, bỏ qua vệ, trực tiếp đến sư.
Thay vì mỗi sư 10 vệ, mỗi vệ 10 đoàn thì Giang Phong buộc phải cho 100 đoàn hợp lại thành sư.
Cũng may Vương Đại tướng quân là thống soái hình tướng lĩnh, lại là lão tướng nhiều kinh nghiệm nên mới chưa xuất hiện vấn đề nghiêm trọng.
Đến khi Nguyên Thành thăng cấp thành Phủ Thành thì vấn đề này có thể giải quyết được.
Theo quân chế trong “Vương Mệnh”, quân đội ở Phủ Thành do Đại tướng quân thống lĩnh, dưới Đại tướng quân có thể có các tướng quân, số lượng tùy thuộc vào quân số.
Nhưng tướng quân không thể tùy tiện phong cho ai cũng được, cần phải có thanh vọng hoặc công huân nhất định.
Ngoài ra còn có chỉ số thống soái trị ảnh hưởng đến năng lực thống quân.
Thống soái trị quá thấp thì sức chiến đấu của quân đội cũng sẽ thấp.
Tuy nhiên, việc mua quan bán tước cũng có thể xảy ra.
Nếu thanh vọng hoặc công huân chưa đạt điều kiện mà vẫn được phong tướng quân thì gọi là “hậu bổ tướng quân” hay “ngụy tướng”.
“Hậu bổ tướng quân” chỉ có tước chứ không có chức, nếu miễn cưỡng cầm quân thì cũng có thể