Số phận nam phương chư tộc
Nam phương là chỉ vùng đất phía nam sông Giang, bao gồm đất Kinh, đất Dương và đất Lĩnh.
Từ thời Thần Nông thị đương quyền, đất Kinh đã là lãnh địa của Hồ tộc, đất Lĩnh là lãnh địa của Miêu tộc, cùng hơn chục tiểu tộc chia nhau cư trú ở đất Dương.
Sau khi bị bài tệ khỏi Bình Nguyên, Thái tử Lộc Tục được cha vợ là Động Đình Quân đón về đất Kinh, tự lập tôn miếu, đăng cơ xưng vương.
Vì làm vua ở đất Kinh nên hiệu là Kinh Vương.
Đó là năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch), một mốc thời gian quan trọng của người Việt.
Con cháu của Kinh Vương chính là người Kinh sau này.
Do Kinh Vương đặt quốc hiệu là Việt Thường, nên con cháu của những người thuộc nước Việt Thường xưa đều gọi mình là người Việt, dù thuộc các dân tộc khác nhau.
Cộng đồng tộc Việt hiện nay có đến 54 dân tộc anh em.
Sử Tàu gọi nước của Kinh Vương là Xích Quỷ (Quỷ Đỏ hay Quỷ Lửa), rồi nhiều sử gia sau này lấy đó làm quốc hiệu của Kinh Vương.
Điều đó không hợp lý, có ai đặt quốc hiệu là "Quỷ" bao giờ.
Người Tàu rất ưa cái trò gọi người khác tộc là quỷ, như gọi người Nga là La Sát (tên 1 loài quỷ).
Sau đó, Kinh Vương được họ bên mẹ là Miêu tộc ủng hộ, lãnh thổ mở rộng đến đất Lĩnh.
Do hai bộ tộc lớn của nam phương đều ủng hộ Kinh Vương nên các bộ tộc ở đất Dương cũng theo về.
Sau khi thu phục được đất Dương, Kinh Vương đã cải hiệu thành Kinh Dương Vương.
Phương nam thống nhất với quốc hiệu là Việt Thường, tộc hiệu Hồng Bàng (鴻龐).
Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rộng lớn, phía bắc tới sông Giang (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải, phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay).
Có sử liệu chép "phía bắc tới hồ Động Đình" cũng giống nhau.
Động Đình Hồ ngày xưa rộng hơn hiện giờ rất nhiều lần, khoảng cách từ sông Giang (Đại Giang hay Trường Giang) đến bờ bắc Động Đình Hồ chưa bằng 1/10 khoảng cách từ bờ bắc đến bờ nam (nơi sông Tương đổ vào).
Mà người dân sinh sống xung quanh hồ chứ không phải trên mặt hồ.
Vì thế khu vực Động Đình Hồ được tính đến cả sông Giang.
Các nhà ngôn ngữ dân tộc học cho rằng phát âm của từ 越 (Việt, Yue, Yueh) có thể có liên quan đến một loại sợi cây gai dầu (hemp) được làm tại nơi mà nay là Chiết Giang.
Chính chữ Việt (越) có liên quan đến chữ "việt" (鉞 - cái rìu lớn, một thứ binh khí thời xưa), thường được coi là biểu tượng của hoàng gia hoặc quyền lực hoàng đế.
Nhiều rìu đá đã được tìm thấy tại vùng Hàng Châu, và còn có bằng chứng rằng loại rìu đó là một phát minh của vùng đất phía