Tần Tranh chưa bao giờ thấy Sở Thừa Tắc có biểu cảm như vậy, cô nghi hoặc hỏi: “Không thể tiết lộ à?”
“Không phải.”
Sở Thừa Tắc nhìn cô, nói: “Ta họ Sở, là người Lũng Tây.”
Tuy Tần Tranh cũng hơi ngạc nhiên vì kiếp trước y cũng mang họ Sở nhưng nghĩ đến quy luật trùng họ tên khi xuyên sách, cô lập tức trấn tĩnh, chỉ nói: “Vậy thì thật là có duyên.”
Sở Thừa Tắc khẽ mím môi, tiếp tục nói: “Vừa sinh ra ta đã khắc chết mẫu thân mình, bị cho là kẻ xúi quẩy, còn trong tã lót đã bị đưa vào chùa tu hành.”
Tần Tranh thoáng cảm thấy quá khứ của y nghe hơi quen nhưng trước mắt, cảm xúc của cô đa phần là thấy đau lòng thay cho y nên nhất thời không nhớ ra, chỉ an ủi: “Phụ nữ sinh nở vốn là chuyện bước một chân vào cửa tử. Mẫu thân chàng mang thai chín tháng mười ngày, chắc chắn mang theo mong đợi chào đón chàng ra đời, nếu bà còn sống hẳn sẽ không muốn nghe người khác nói chàng là kẻ xúi quẩy. Người khác nói thế nào là việc của họ, chàng tuyệt đối không được cho là như vậy.”
Tất cả mọi ấn tượng của Sở Thừa Tắc về mẫu thân mình chính là: bà bị y khắc chết.
Vì lớn lên trong chùa, nhà Phật đề cao tứ đại giai không nên từ nhỏ, tình thân đối với y cũng là chuyện rất lạnh nhạt, thỉnh thoảng người của Sở gia ở Lũng Tây đến chùa dâng hương sẽ tiện thể ghé thăm y một lát, và “sát tinh” chính là cách họ gọi y.
Có lẽ vì quan hệ với người nhà quá mỏng manh, những tăng lữ tu hành trong chùa cũng không ai đề cập đến cha mẹ huynh đệ của mình nên Sở Thừa Tắc chưa từng đặt người nhà họ Sở trong lòng. Với y mà nói, những người đó chẳng qua chính là duyên phận kiếp trước mà nhà Phật hay nói.
Sau khi mẫu thân y qua đời, cái người y gọi là phụ thân cưới thê tử khác, có con trai con gái đầy đủ, gia đình hoàn mỹ, không liên quan gì đến y. Tuy nhiên mỗi lần gặp y ông ta đều trách mắng một chặp, giống như muốn dùng cách thức ấy để chứng tỏ người đàn ông ấy vẫn còn nhớ đến mẫu thân y vậy.
Năm xưa, Sở Thừa Tắc còn chưa vào đời đã vào cửa Phật nên cảm thấy có lẽ vị thí chủ kia bị điên rồi, bây giờ đã vào chốn hồng trần, nhìn lại chỉ thấy khá tức cười.
Sau này, chiến loạn nổi lên, phụ thân y – tiết độ sứ của vùng Lũng Tây – chết trận, sư phụ trong chùa nói duyên trần của y chưa dứt, bảo y xuống núi chịu tang xong thì không cần về chùa nữa.
Mẹ kế một lòng đề phòng y, sợ y trở về tranh đoạt gia sản với con trai bà ta nên không ngừng tung tin y khắc chết mẫu thân, thậm chí việc phụ thân y tử chiến cũng là vì trước đó không lâu đi thăm y, dính sự xúi quẩy của y. Người của Sở gia coi y là tai họa, là sao chổi.
Đời trước, y chỉ chịu ơn sinh của Sở gia, dập đầu ba cái trước linh đường của phụ thân là rời khỏi nhà họ Sở, một mình đi vào doanh trướng của quân địch để báo thù, trả lại ơn sinh.
Mẹ kế ước gì y đi thật nhanh, nhưng sau khi y đi lại khóc lóc kể lể mắng y là đồ bất hiếu, diễn đủ trò khiến trưởng lão trong tộc gạch tên y khỏi gia phả.
Năm đó Sở Thừa Tắc chưa bao giờ quan tâm đến điều đó, bây giờ càng không.
Lúc đầu, y nghĩ mình xuống núi chỉ để báo thù cho phụ thân, sau này thấy chiến tranh lan tràn, bách tính ăn cây ăn cỏ, thậm chí ăn đất, ăn thịt lẫn nhau, trông mà lạnh cả người.
Chốn A Tỳ địa ngục trong kinh Phật viết, tại nhân gian y đã tận mắt chứng kiến.
Thay vì niệm kinh siêu độ cho người chết, y cảm thấy nên độ cho những người còn sống.
Vì thế y cầm đao lên, chinh chiến cả đời.
Ba trăm năm trước có người nói y có thể khởi sự cũng là nhờ thế lực của Sở gia ở Lũng Tây, nhưng năm đó, Sở gia đề phòng y như đề phòng mãnh thú, y khởi sự chưa từng nhờ một binh một tốt nào của Sở gia.
Ngược lại sau này Sở gia bị đánh tan, con trai của mẹ kế bị đẩy lên vị trí tiết độ sứ nhưng bất tài vô dụng, dẫn đến Lũng Tây thất thủ, hắn thân là chủ tướng, bị Bắc Nhung mổ bụng treo lên cổng thành để thị uy trước ba quân. Vài người họ Sở chạy trốn được, đến xin y thu nhận. Y phát binh đoạt lại Lũng Tây, từ đó Lũng Tây mới hoàn toàn thuộc sự cai quản của y.
Sở Thừa Tắc không thích nhớ lại những chuyện này, ngoại trừ giết chóc chỉ có chửi mắng. Nhưng hôm nay nói với Tần Tranh, vừa được mấy câu là cô tìm mọi cách an ủi.
Ba trăm năm trước, y là tu la ác quỷ; ba trăm năm sau, y là vũ thần bách chiến bách thắng. Tất cả mọi người đều cảm thấy những chuyện xảy ra với là bình thường, chỉ có cô gái trước mặt là đau lòng y, xem y là người có máu thịt.
Sở Thừa Tắc cười bảo: “Ta chưa từng cho là như vậy.”
Sau này y dần không tin Phật nữa nhưng không thể không thừa nhận nửa đời tu hành đã rèn đúc tâm tính của y. Những lời mắng mỏ kia dồn dập như thủy triều nhưng chưa bao giờ khiến y dao động, cũng chưa từng khiến y mất đi lý trí, gây ra sai lầm gì không thể vãn hồi được.
Tần Tranh đột nhiên nhớ ra điều gì, dồn hỏi: “Sau đó thì sao? Chàng vẫn luôn ở chùa tu hành à?”
Trước đó cô đoán với tính khí ấy, y hẳn là một người tu tiên, kết quả không phải tu tiên mà là tu hành.
Cũng không khác là mấy.
Sở Thừa Tắc đưa tay ôm lấy cô, tay vân vê một lọn tóc phía sau lưng cô. “Sau này, dưới núi có chiến loạn, bách tính lầm than, ta bèn xuống núi đánh trận, trở thành hoàng đế.”
Tần Tranh cứng người, ngẩng đầu lên, tròn mắt nhìn y.
Họ Sở, người Lũng Tây?
Từ nhỏ bị đưa vào chùa tu hành, sau này xuống núi đánh trận, làm hoàng đế?
Sao càng nghe càng quen thế nhỉ?
Cô nuốt nước miếng, hỏi: “Ngôi chùa chàng tu hành cũng tên là Vân Cương Tự à?”
Sở Thừa Tắc gật đầu. “Tên thật của ta là Thừa Tắc.”
Tần Tranh im lặng không lát thật lâu, đến lúc Sở Thừa Tắc định nói gì đó, cô đột nhiên nhoài người tới dùng mu bàn tay dờ lên trán y. “Không ấm đầu mà…”
Sở Thừa Tắc: “…”
Y kéo bàn tay đặt trên trán mình xuống, nhíu mày. “Nàng không tin?”
Tần Tranh nhìn vào mắt y, im lặng một lát rồi nói: “Chàng để ta tiêu hóa cái đã.”
Sở Thừa Tắc thả bàn tay đang nắm cổ tay Tần Tranh ra. Cô chống lên mặt bàn, đứng dậy đi vài vòng quanh phòng như người mộng du rồi mới nhìn Sở Thừa Tắc bằng ánh mắt như nhìn thấy quỷ: “Chàng thật là Vũ Gia Đế?”
Không phải cô không tin, mà là tin tức này quá động trời.
Nếu y nói mình là một đại lão ở tu chân giới có lẽ Tần Tranh còn dễ tiếp nhận hơn.
Cô đến đây lâu nay, bách tính xem Vũ Gia Đế như thần thánh, Vũ Gia Đế lại là tổ tiên của thái tử, tuy Tần Tranh phát hiện ra y không phải là thái tử nhưng không cách nào tưởng tượng được trong thân thể này chính là linh hồn của Vũ Gia Đế.
Nếu thế, việc y bất kính của với hoàng tộc họ Sở, không tôn trọng miếu thờ Vũ Gia Đế đều có thể giải thích được, chẳng qua là nhất thời cô chưa tiêu hóa kịp thôi.
Sở Thừa Tắc đáp: “Nếu thật sự khó tiếp nhận thì nàng cứ coi ta là thái tử Sở Quốc.”
Tần Tranh bước tới ngồi xuống chiếc ghế thấp bên cạnh chiếc giường tháp nhỏ, khẽ lắc đuầ. “Không phải là quá khó tiếp nhận, chẳng qua là…”
Cô ngửa đầu nhìn Sở Thừa Tắc. “Quá bất ngờ mà thôi.”
Thấy thần sắc cô đã bình tĩnh lại, y hỏi: “Không sợ à?”
Tần Tranh xua tay. “Chàng đến từ ba trăm năm trước, ta đến từ ngàn năm sau, kẻ tám lạng người nửa cân, sợ gì chứ?”
Mọi bí mật đã bại lộ, Tần Tranh cảm thấy nhẹ nhõm chưa từng có. Cô hỏi: “Chàng đến đây từ khi nào thế?”
Sở Thừa Tắc cụp mắt nhìn dáng vẻ chống cằm của cô, như chìm vào trầm tư. “Hôm quân phản loạn công phá thành Biện Kinh, lúc nàng đâm thống lĩnh cấm quân, ta vừa tỉnh lại.”
Y nhớ vì quanh năm chinh chiến, trên người có nhiều vết thương trí mạng, lại hay dùng phương thuốc cực mạnh nên cơ thể bị tổn thương nặng, chỉ mới hai tám tuổi đã thành ngọn đèn cạn dầu.
Trước nhắm mắt, y nghe thấy trong ngoài tẩm điện đều là tiếng khóc lóc bi thương. Thời thế đã thái bình, đời y nhân duyên lạnh nhạt, cũng không có vướng bận.
Nhưng chỉ thoáng cái, tiếng khóc lóc kia đã biến thành tiếng kêu gào thê lương, những âm thanh ấy cứ níu lấy y, khiến y không thể đi về phía bóng tối vô tận nữa mà phải tỉnh lại.
Vừa mở mắt ra là ba trăm năm sau.
Vương triều mà y lỡ tay sáng lập năm xưa, đứng sừng sững ba trăm năm, giờ là lúc nó chao đảo.
Y buộc phải tiếp nhận thân phận của thái tử Đại Sở, dẫn theo vị thái tử phi kia đào vong, dẫn đến những chuyện xảy ra sau này.
“Hoài Chu là tên chữ của chàng khi xưa à?” Tần Tranh cảm nhận được y thất thần nên đưa tay gãi nhẹ vào lòng bàn tay y, phá vỡ cơn suy tư của y.
Sở Thừa Tắc gật đầu. “Trước khi xuống núi, sư phụ đã đặt cho ta.”
Lão sư phụ nói: bình thường nam nhi đến tuổi nhược quán (20 tuổi) đều sẽ có trưởng bối đặt tên chữ cho. Y xuống núi xong không quay lại chùa nữa, duyên phận sư đồ giữa họ đến đây coi như kết thúc, ông đặt tên cho y coi như tiễn biệt.
Sau này chinh chiến sa trường, bị gọi là đồ tể đất Lũng Tây, Vân Cương Tự cũng vạch rõ giới hạn với y, y cũng không muốn vì một cái tên mà mang lại phiền toái cho chùa nên không dùng nó nữa.
Tần Tranh nói: “Thừa Tắc, Hoài Chu. Tên thật và tên chữ của chàng rất xứng với nhau, hẳn năm đó sư phụ của chàng cũng mong chàng đi theo con đường này.”
Tắc chính là giang sơn xã tắc, quân cũng chính là chu. (Xuất phát từ ý: Vua là thuyền, dân là nước, nước có thể đẩy thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền.)
Ở kiếp trước, thứ Sở Thừa Tắc đối diện nhiều nhất chính là ngờ vực và phản bội. Sau khi Vân Cương Tự vạch rõ giới hạn với y, từ đó y không bao giờ lên núi nữa. Lúc này nghe Tần Tranh nói thế, nhớ lại ánh mắt thương xót của sư phụ, có thứ gì đó vỡ òa trong ngực y sau ba trăm năm bị bụi trần thế che phủ.
Phật dạy: Ta không vào địa ngục thì ai vào.
Năm xưa y cầm đồ đao, cũng coi như là vào địa ngục.
Chữ thiền mà kiếp trước y chưa giác ngộ được kiếp này cuối cùng đã giác ngộ.
Sở Thừa Tắc nhìn cô gái ngồi bên cạnh mình, bật cười thoải mái. Giác ngộ được thì sao? Y đã lạc vào hồng trần rồi.
Sở Thừa Tắc thấy y nhìn mình cười thì cảm thấy ngạc nhiên, hỏi: “Chàng cười gì đó?”
Sở Thừa Tắc nắm bàn tay lại, bắt lấy bàn tay nõn nà của cô. “Cười A Tranh thật là thông tuệ.”
Tần Tranh nghi hoặc nhìn y một cái, không hiểu sao tự nhiên y lại khen mình. Tiếp nhận thân phận của y, cô bỗng nhớ ra một chuyện. “Hoàng lăng là do Lý Tín phái người đào thật à?”
“Ta đào đấy.”
Dù đã chuẩn bị tâm lý trước nhưng khi nghe người nào đó ngang nhiên nói ra ba từ này, Tần Tranh vẫn sững sờ.
Sau đó cô lại an ủi mình. Không sao, dù gì cũng là hậu bối của y, đào thì đào thôi.
Cô nói: “Phía Lý Tín tự dưng bị đổ cho cái oan lớn như thế, chắc chắn là sẽ không bỏ qua. Số vàng bạc châu báu đòa ra từ hoàng lăng tạm thời đừng vội tuồn sang Tây Vực, cứ bán những thứ không có dấu ấn trước đi đã, lỡ có rơi vào tay Lý Tín thì chúng cũng không tra được gì.”
Sở Thừa Tắc đồng ý. “Cứ làm theo ý nàng đi. Sầm Đạo Khê thăm dò Nguyên Giang, lo nếu bọn Lý Tín chó cùng rứt giậu sẽ phá hủy đập Ngư Chủy, nhấn chìm Thanh Châu và phía nam nên muốn đào một con sông nhỏ dẫn nước từ khúc Đại Khảm thôn, dẫn nước vào sông Xích Thủy, như thế có thể bảo vệ xóm làng hai bên bờ. Để phía Lý Tín không phát giác, việc đào sông phải âm thầm tiến hành, đúng lúc nàng muốn đào mương dẫn nước vào những xóm làng xa Nguyên Giang, có thể dùng việc này che giấu.”
Khi ấy Tần Tranh mới hiểu tại sao sau khi đi khảo sát Nguyên Giang với mình về, y đột nhiên đề xuất đến Hộ Châu một chuyến.
Việc đào một con sông khác hẳn với đào kênh dẫn nước để tưới tiêu. Mang toàn bộ ngân lượng dùng để đào kênh ra cũng không đủ để đào sông.
Muốn đạt được hiệu quả dẫn nước giải trừ hồng thủy phải tính toán khả năng chứa nước tối đa của Nguyên Giang, lượng nước nhiều nhất có thể chảy vào sông là bao nhiêu, trừ đi lượng nước sông chính có thể chứa được, còn lại phải dẫn sang sông phụ.
Vì thế phải tính toán ra được sông rộng và sâu bao nhiêu mới đạt đến hiệu quả dẫn nước.
Quy hoạch xong hướng chảy của nhánh sông này, khi bắt đầu động thổ đào, ở cái thời đại không có máy xúc này, chỉ dựa vào sức người, muốn đuổi kịp tiến độ thì chỉ có thể huy động càng nhiều bách tính càng tốt.
Hao tổn nhân lực, cũng hao tổn vật lực.
Quan trọng nhất là hàng ngàn con người đi đào sông, động tĩnh lớn như thế, muốn che giấu quả thật rất khó.
Tần Tranh thuộc tuýp người hành động, lập tức lục tìm quyển sổ ghi chép về lưu vực Nguyên Giang người xưa để lại mà cô hay xem mấy ngày nay. “Từ thôn Đại Khảm đào một con sông thông với Xích Thủy là
chuyện không dễ dàng, ta phải tính xem con sông này phải chứa được bao nhiêu nước.”
Nếu không thể hoàn thành trong thời hạn định ra thì chỉ có thể xả bớt một nửa nước trong đập Đại Độ ở Thanh Châu.
Nhưng một khi xả đập Đại Độ thì sẽ không giấu được nữa. Phía Lý Tín biết tin đập chứa nước của họ thiếu nước vậy chắc chắn sẽ không xả đập Ngư Chủy để dìm chết họ.
Năm nay Thanh Châu trồng trọt với diện tích lớn, qua hai tháng nữa là vào mùa đồng ruộng cần nước, nếu đập Đại Độ không có nước thì hoa màu sẽ bị hạn hán mà chết, đến lúc đó bách tính tất nhiên sẽ oán thán hành vi xả đập của họ.
Nếu Lý Tín châm dầu vào lửa, nhiễu loạn lòng dân thì họ sẽ mất nhiều hơn là được. Như thế Lý Tín không cần tốn một binh một tốt nào, chỉ vì mối họa ngầm này mà họ tự đẩy mình vào thế hiểm.
Vì thế biện pháp ổn thỏa nhất trước mắt chính là âm thầm đào thật nhanh con sông dẫn nước.
——
Lý Tín phải gánh chịu tiếng oan đào lăng mộ người ta, đương nhiên là vô cùng phẫn nộ.
Văn nhân trong thiên hạ dùng ngòi bút chỉ trích mắng mỏ hắn. Giả như hắn làm việc này thật thì không nói, đằng này lại là tiếng oan tai bay vạ gió.
Hắn biết chắc chắn sẽ có không ít cựu thần của Đại Sở bất mãn với mình, Sở thái tử lại càng biết làm người ta buồn nôn, lúc này lại đề bạt quận trưởng Mạnh Quận vì có công hiến kho lương, còn bảo hắn mang theo lễ hậu đi thuyết phục những người khác.
Những người được quận trưởng Mạnh Quận tìm đến đều là kẻ thấy gió chiều nào xuôi theo chiều ấy, Lý Tín sợ họ sẽ mang thành trì quy hàng Sở thái tử thật nên trong cơn giận dữ đã hạ lệnh giết vài viên quan bị thuyết phục, phái thân tín của mình thay vào vị trí ấy.
Địa bàn được giữ lại nhưng danh tiếng của hắn cũng càng thêm nát.
Những tâm phúc theo hắn từ Kỳ Huyện vội khuyên ngăn. “Dư nghiệt triều trước hắt nước bẩn vào bệ hạ, bệ hạ hà tất vội xông tới nhận lấy?”
Lý Tín quăng những bài thi từ ca phú mà văn nhân Biện Kinh thóa mạ hắn xuống dưới chân lão thần kia. “Ngươi nhìn xem, những kẻ chỉ biết đọc sách thánh hiền kia đang đổ tội lên đầu trẫm thế nào! Trẫm phải tru di cửu tộc chúng!”
Lão thần nhìn những dòng chữ cay nghiệt mắng chửi Lý Tín, nói: “Bệ hạ, càng làm thế thì càng mất lòng dân, như thế là đúng y của kẻ địch rồi.”
Lý Tín lạnh giọng quát. “Vậy ngươi nói phải làm thế nào đây?”
Lão thần có khuôn mặt già nua nhăn nhó như vỏ cây tùng nhưng đôi mắt lại sắc như mắt chim ưng. “Quân đang đóng ở Hộ Châu là quân dưới quyền của đại hoàng tử, người không đành lòng đẩy đại hoàng tử ra cũng được, nhưng chẳng phải còn một Thẩm Ngạn Chi sao?”
Mắt Lý Tín lập tức sáng lên. “Ý của ngươi là đổ hết chuyện quật lăng mộ lên đầu Thẩm Ngạn Chi?”
Lão thần đáp: “Đúng vậy. Vừa hay hắn và hoàng tộc Sở thị có mối thù đoạt thê tử, đồn ra ngoài không sợ bách tính không tin.”
Lý Tín cười to: “Hay! Vậy cứ để họ Thẩm và họ Sở cắn nhau đi!”
Tiểu thái giám dâng trà bên cạnh cúi đầu im lặng nhưng thật ra đang âm thầm liếc nhìn lão thần vừa hiến kế một cái.
——
Đêm đó, có bức mật thư gửi đến tay Thẩm Ngạn Chi.
Hắn đọc thư xong, khuôn mặt tái nhợt nở một nụ cười lạnh, trông thật đáng sợ dưới ánh nến chập chờn. “Muốn để bản thế tử làm con dê thế tội à, cũng phải xem xem hai đứa con trai ngoan của ông có chịu hay không đã.”
Hắn đốt bức thư trên ngọn nến, lạnh lùng nhìn nó cháy rụi rồi ra lệnh: “Đi gặp đại hoàng tử.”
Từ khi đội quân giả vờ tấn công Hộ Châu bị chụp mũ đào hoàng lăng, phe cánh của nhị hoàng tử lại được dịp đè ép đại hoàng tử.
Đại hoàng tử thầm oán trách Thẩm Ngạn Chi nhưng càng giận chủ tướng dẫn đội quân kia. Tự nhiên chạy đến Long Cốt Sơn làm gì để rơi vào bẫy của người ta. Lúc này, nghe Thẩm Ngạn Chi cầu kiến, hắn bắt Thẩm Ngạn Chi phải đợi nửa canh giờ mới chịu cho vào.
Gặp Thẩm Ngạn Chi, câu đầu tiên là: “Mưu kế của Thẩm Ngạn Chi thật là hay, bản vương rơi vào tình cảnh như thế này ngươi hài lòng rồi chứ.”
Thẩm Ngạn Chi chắp tay nói: “Tương Vương điện hạ bớt giận. Hạ quan và điện hạ đứng trên một con thuyền, há có thể làm hại điện hạ? Dư nghiệt triều trước tự đào hoàng lăng ô miệt điện hạ là điều hạ quan cũng không ngờ tới.”
Đại hoàng tử được phong là Tương Vương.
“Nhưng hạ quan cho rằng đội quân của Kim tướng quân đụng phải quân Sở ở Long Cốt Sơn, vậy có nghĩa chúng đã ở trên đó từ trước.” Thẩm Ngạn Chi nói xong, nhìn đại hoàng tử.
Đại hoàng tử cau mày. “Ý của ngươi là dư nghiệt của triều trước sớm đã muốn đào hoàng lăng nhà chúng?”
Thẩm Ngạn Chi gật đầu: “Đúng vậy. Dư nghiệt triều trước một mạch đoạt được bốn thành, quân đội trong tay thoáng chốc tăng nhanh, nghe nói chúng trị quân rất nghiêm, không được quấy nhiễu bách tính, vậy lấy bạc đâu ra mà nuôi quân? Theo ý thần, dư nghiệt triều trước vốn âm thầm đi đào hoàng lăng, muốn dùng vàng bạc châu báu trong đó để nuôi quân, không may bị Kim tướng quân đụng phải nên mới tiện thể đổ tội danh này lên đầu ông ấy.”
Đại hoàng tử nghe xong thì vỗ bàn thật mạnh. “Khốn nạn! Bọn chúng dám hại ta thê thảm như vậy!”
Thẩm Ngạn Chi thuận thế an ủi. “Điện hạ đừng giận. Vàng bạc chôn cùng đều có dấu ấn, nếu chúng muốn sang tay thì không thể bán chút ít được. Đợi số lượng lớn vàng bạc châu báu có dấu ấn hoàng gia xuất hiện, ta lần theo manh mối là có thể tóm được chúng, để người trong thiên hạ thấy kẻ quật mộ tổ tiên minh là người thế nào.”
Quả nhiên lửa giận trong lòng đại hoàng tử lập tức dịu xuống, cũng đổi sắc mặt, nói với Thẩm Ngạn Chi. “May mà có Ngạn Chi phò trợ ta.”
Thẩm Ngạn Chi cụp mắt, che giấu vẻ trào phúng lóe lên, nói: “Hiện nay khó nhằn nhất là phía nhị hoàng tử.”
Nhắc đến nhị hoàng tử, đại hoàng tử lại hận đến nghiến răng. “Những ngày qua hắn không ngừng nói xấu bản vương trước mặt phụ hoàng, cái thứ hèn hạ dai như đỉa này cũng chỉ biết múa mép mà thôi.”
Thẩm Ngạn Chi nói: “Lần này vì chuyện hoàng lăng, bệ hạ rất tức giận. Nhị hoàng tử chắc chắn sẽ ra sức áp chế điện hạ, điện hạ chi bằng chặt tay để tìm đường sống.”
Đại hoàng tử nhìn Thẩm Ngạn Chi. “Ý của Ngạn Chi là?”
“Điện hạ hy sinh Kim tướng quân, rồi mang ít vật phẩm bồi táng đến biệt viện của ngoại thất của nhị hoàng tử giấu.” Thẩm Ngạn Chi nói rất nhẹ nhàng, miệng còn nở nụ cười nhưng những lời nói ra lại khiến người ta rét lạnh.
“Chẳng phải nhị hoàng tử vu hãm điện hạ lén nuôi quân riêng, đào hoàng lăng là để lấy vàng bạc nuôi quân sao? Vàng bạc trong hoàng lăng nằm trong tay nhị hoàng tử, lại bảo Kim tướng quân cung khai là chịu lệnh của nhị hoàng tử đi đào hoàng lăng, nhân chứng vật chứng đầy đủ, lúc đó mất sự tín nhiệm của bệ hạ sẽ là nhị hoàng tử.”
Đại hoàng tử bị thuyết phục đã dao động nhưng vẫn hơi do dự. “Kim tướng quân một lòng trung thành với bản vương…”
“Điện hạ, người làm đại sự không câu nệ tiểu tiết, sau đó hậu đãi người nhà của ông ta là được.”
Đại hoàng tử nhắm mắt lại, cuối cùng đồng ý.
Kế hoạch ban đầu của họ là để Đổng Thành làm nội gián nhưng bây giờ Đổng Thành có được Sở thái tử trọng dụng không còn chưa biết, hơn nữa chỉ bằng vài lời nói của họ, không thể đảm bảo Đổng Thành ở trong quân lâu, tự điều tra được gì.
Lúc đại hoàng tử đề xuất không thể dùng quân cờ Đổng Thành được nữa thì Thẩm Ngạn Chi lại nói: “Bây giờ có không ít cựu thần đến quy thuận dư nghiệt triều trước, nếu điện hạ dám cược thì chi bằng cược lớn một chút.”
Đại hoàng tử hỏi: “Là sao?”
Thẩm Ngạn Chi chỉ vào đất Vân Châu trên bản đồ. “Mấy viên quan mà quận trưởng Mạnh Quận đến thuyết phục đều bị bệ hạ xử trảm, hiệu quả không thấy chỉ thấy tác dụng ngược, không ít châu phủ đều âm thầm có lòng khác, bí mật thỏa thuận với dư nghiệt triều trước. Chi bằng điện hạ bắt giữ phụ mẫu, thê nhi của An tướng quân ở Vân Châu, bảo hắn vờ mang Vân Châu quy hàng.”
Mang theo cả một châu phủ quy hàng, lại có chuyện Lý Tín giận dữ giết hại cựu thần Đại Sở, chắc chắn sẽ không khiến Sở thái tử sinh nghi. Một khi hai bên giao chiến, Vân Châu lật mặt, phía Sở thái tử chỉ có nước rơi vào thế gọng kìm.
“Vì người nhà, An tướng quân chắc chắn không dám hai lòng, hơn nữa có giấu hắn và Đổng Thành, đừng để họ biết thân phận nội gián của nhau. Nếu tin tức Đổng Thành truyền về khớp với An tướng quân thì chứng tỏ Đổng Thành có thể dùng được, nếu không phải thì cứ tung tin Đổng Thành là nội gián của ta, để phía đó tự xử lý hắn.”
Đại hoàng tử vỗ tay cười to. “Bản vương cứ ngỡ Đổng Thành đã là một quân cờ vô dụng rồi, kế này của Ngạn Chi quả thật đã làm cả bàn cờ sống lại.”
—
Đêm ấy, có người mang một ly rượu đến doanh trướng của Kim tướng quân. Nghe nói Kim tướng quân cười to vài tiếng xong, cắt tay điểm chỉ vào tờ tội trạng, sau đó uống rượu mà đi.
Thẩm Ngạn Chi đứng ngoài doanh trướng hứng gió lạnh cả đêm. Hắn biết, ngày mai sẽ có một đội nhân mã đến Vân Châu, “mời” người nhà của An tướng quân đến làm khách.
Gió đêm lạnh lẽo, trong phổi như có hàng ngàn con kiến cắn xé làm hắn không ngừng ho sù sụ, đến nỗi khạc ra máu. Lúc được Trần Khâm đỡ về phủ, hắn nhìn đôi bàn tay trắng bệch của mình dưới ánh nến, vẻ mặt như cười như không, mang theo chút tự mỉa mai và chế nhạo.
Đôi tay này trắng trẻo sạch sẽ nhưng đã dính máu của không biết bao nhiêu người.
Nhưng hắn phải sống, muốn sống tiếp thì chỉ có thể giẫm lên thi cốt của người khác mà đi.
Lý Tín muốn hắn gánh tội, nhị hoàng tử muốn diệt trừ thế lực ủng hộ đại hoàng tử, vậy hắn sẽ lợi dụng cuộc chiến ngai vàng giữa hai người này để kéo nhị hoàng tử xuống nước, để xem có tờ khai nhận tội của Kim tướng quân, Lý Tín làm sao để để bắt hắn gánh tội.
Thời thế này, người trung hậu là không sống lâu được. Sống tốt chỉ có thể là kẻ ác.
Vậy hắn cứ làm kẻ ác một cách triệt để đi… Từ lâu hắn đã không sống như một con người nữa rồi.
Phía Sở thái tử, cuối cùng hắn cũng tra được một bí mật. Trước kia Sở thái tử giả vờ ngu muội chỉ là để sống sót trong tay Sở Dương Đế, vì thế mới khiến danh tiếng của mình nát đến vậy.
Trải qua cơn giận cuồng nộ, bây giờ hắn đã từ từ học được cách bình tĩnh.
Hắn thừa nhận đối thủ của hắn rất mạnh, cũng tiếp nhận việc rất có thể người trong lòng mình đã yêu thích Sở thái tử vì y không còn ngụy trang nữa.
Nhưng thế không có nghĩa là hắn sẽ buông tay.
Mối hận đoạt thê không thể xóa được.
Nàng của là hắn. Cuối cùng chỉ có thể là của hắn.
Dù phải đi tranh, đi cướp, hắn cũng phải đoạt lại viên minh châu vốn thuộc về mình.