Sau khi giải tỏa cục ứ trong lòng bao lâu nay, tôi vui vẻ rời khỏi Thủy Kính Các, tự do đi tới Trường Thiên Điện của Mộ Thương, chỉ là tôi ngó nghiêng ngó dọc, cũng không tìm thấy chàng đâu.
Chàng nói chàng thượng triều trên Thiên Điện một lúc là về nhưng chẳng phải đã quá nửa ngày rồi sao?
Vậy là tôi liền lẽn bẽn đi tìm chàng, thậm chí còn bạo gan tới cả doanh binh của chàng để tìm kiếm.
Doanh binh của chàng đóng quân ngay tại gò Côn Lôn, lấy vị trí của tông môn tôi trước kia làm cứ địa, duyệt binh.
Đã ngàn năm rồi, tôi đã chưa ghé lại nơi đây.
Địa hình Côn Lôn chủ yếu là đất đá và núi, dù hiểm trở nhưng lại là địa điểm thích hợp để rèn luyện “sức dai” vô cùng, và cả là nơi phòng thủ hợp lí.
Tông môn của tôi thì nằm ngay dưới chân núi, và có đền thở trên đỉnh, còn nhớ năm nào, mỗi khi bị phạt, sư phụ đều bắt tôi leo lên leo xuống tới mệt đứt hơi, rã rời mới chịu thôi.
Tất nhiên, người sẽ không cho tôi ngự kiếm.
Nhớ lại khiến tôi bồi hồi, không muốn tới doanh binh ngay, ngự kiếm bay thẳng lên ngôi đền.
Lần cuối tôi gặp sư phụ, là khi người dịu dàng xoa đầu tôi, chúc tôi độ kiếp suôn sẻ, thượng lộ bình an, khi ấy tôi chỉ mải đi nhanh nhanh sớm bắt kịp Thái Uyên, thậm chí vô lễ tới lời từ biệt cũng không nói với người.
Có rất nhiều chuyện ở trần thế vô cùng thú vị tôi muốn kể cho người biết, nhưng nào biết lần đó lại là lần cuối tôi gặp người.
Thậm chí tôi còn chẳng thể nghe những lời khi người hấp hối, không thể đưa tang người và cả chẳng thể giúp người được một chút.
“Sư phụ, Bạch Uyển tới tạ lễ với người đây.”
Tôi bước vào đền, nhẹ nhàng nói vọng vào.
Linh bài của sư phụ được đặt long trọng ngay chính giữa, trong đền chỉ có những cây nến thắp sáng, cùng những tấm rèm vàng khiến xung quanh như được rát thêm hoàng kim vậy.
Màu vàng...màu của sự thương nhớ hay biệt ly, nhìn tên của người được khắc trên mảnh gỗ sắp xỉn màu, tôi ngậm ngùi tiến tới quỳ thụp trước linh bài người.
Tôi hóa lên thẻ tên mà mình luôn đem theo, nó được chính tay người khắc, đặt gần đó, cùng chuỗi phật châu.
Tôi chắp tay, linh thiêng, thành khẩn, cung kính gập người, bái sư phụ một lạy:
“Sư phụ Bạch Uyển về rồi.”
Bạch Uyển về rồi, chỉ là không còn người ở đó chờ con như mọi lần nữa.
Bái xong tôi ngước nhìn linh bài của người một lúc rồi rời đi.
Tôi không dám nán lại lâu hơn, càng nghĩ về quá khứ, tôi sẽ càng buồn và trách cứ bản thân hơn.
Dù rằng mọi chuyện đã qua đi chăng nữa thì có lẽ sự ra đi của sư phụ chính là chấp niệm không thể nào xóa mờ trong tôi.
Khi bước xuống doanh trại, tôi bất ngờ khi nhận ra trong các lều không có lấy một bóng người, nỗi buồn bất giác dâng lên, ngay khi tôi vừa định quay về thì hàng trăm những chiếc đèn Khổng Minh đăng khắp chung quanh không biết do ai thả nhẹ nhàng bay lên, tỏa sáng rực bầu trời đêm.
“...Đẹp quá, chúng đâu ra vậy?”
Từng chiếc từng chiếc, nhẹ nhàng đung đưa sáng rực những ngọn lửa ấm áp, thắp sáng cái màn đêm, đốt cháy sự buồn rầu của tôi.
Trên mặt chúng có hàng chữ tạc bút ghi lên “Tống Thẩm Hoan- Mộ Thương”.
Nhìn sự ngọt ngào lãng mạn này, bao nỗi ưu sầu trong tôi tan biến, chỉ còn lại sự ấm áp và cảm động.
“Chàng đã làm ư Mộ Thương?”
Tôi ngẩng đầu nhìn chúng bay dần lên, chàng bước ra ôm lấy tôi từ phía sau.
Dáng người chàng cao