Ninh Tịch nghiêng người uống rượu trên ghế quý phi, xung quanh tưng bừng náo nhiệt nhưng nàng lại như đang ở thế giới khác.
Rượu mạnh chảy dọc từ cánh môi đỏ thẫm của nàng xuống chiếc cổ thon dài, thấm vào vạt áo mê người.
Cảnh tượng đó đẹp đến nỗi cánh đàn ông trên phim trường đều say mê nhìn không chớp mắt.
Thợ quay còn cố ý zoom gần lại để lấy cảnh đặc tả.
"Phong quyển giang hồ vũ ám thôn, tứ sơn thanh tác hải đào phiên...!"
Ninh Tịch đã ngà ngà say, mơ mơ màng màng đọc một câu thơ, sau đó lảo đảo đứng dậy.
Giây tiếp theo, nàng ném vỡ chén rượu trong tay, nâng chân theo nhịp thơ bắt đầu múa: "Khê sài hỏa nhuyễn man chiên noãn, ngã dữ li nô bất xuất môn....."
Chiếc eo thon mềm như cành liễu, uốn cong xuống rồi lại bật lên, lả lướt múa may trong gió, ánh mắt ngập tràn quyết rũ.
"Cương ngọa cô thôn bất tự ai, thượng tư vị quốc thú Luân Đài......" Nàng nhấc thẳng bầu rượu trên bàn lên, một hơi cạn sạch.
Từng động tác múa và cước bộ đều khiến mọi người hoa hết cả mắt, trông giống như một màn chiến vũ trên chiến trường hơn là một điệu múa đơn giản, chỉ trong nháy mắt một yêu tinh mê hoặc chốn nhân gian trở thành một tướng quân anh dũng chinh chiến nơi sa trường, khiến người chứng kiến kinh diễm.
Thân phận thật sự của Đức phi là nữ tướng quân Mạnh Trường Ca, Mạnh gia đời đời chinh chiến vì nước, cuối cùng lại đổi lại cảnh nhà tan cửa nát, không một ai sống sót, chỉ còn lại một mình nàng.
Nàng lẻn vào thâm cung không chỉ để giết kẻ thù mà còn muốn lật đổ cả thiên hạ này.....
Cách đó không xa, hoàng đế lại không nhận được sự nguy hiểm rình rập, hắn đang đắm chìm trong sắc đẹp, ngẩn người bưng ly rượu ngắm nhìn mỹ nhân trước mắt.
Thấy sự cuồng nhiệt, si mê lại được thiếu đốt trong ánh mắt hoàng đế, Hiền phi cùng các phi tần khác đều tràn ngập đố kị.
"Dạ lan ngọa thính phong xuy vũ, thiết mã băng hà nhập mộng lai......!Thiết mã băng hà nhập mộng lai......!Thiết mã băng hà nhập mộng lai......"
*Câu thơ được trích trong bài Cảm Hoài Thi, được viết vào tháng 11 năm Thiệu Hy thứ 3 (1192) tại Sơn Âm, quê hương của Lục Du.
Lục Du sống vào thời kỳ hai triều Tống Kim đánh nhau, ông trở thành một người rất trăn trở vì mất nước.
Bài thơ này được viết khi ông nằm nơi thôn trang cô tịch nhưng không hề than oán cảnh ngộ buồn thảm của chính mình, chỉ hận không được vì nước đến trấn thủ tại Luân Đài.
Những đêm mưa to gió lớn, ông thường mơ thấy mình chỉ huy đoàn thiết kỵ vượt dòng sông đóng băng, chiến đấu với địch quốc phương Bắc.
Câu thơ cuối, Ninh Tịch nói ba lần, lần thứ nhất là hoảng hốt, sau đó là bi thương, lần cuối cùng lại kiên định vô cùng.
Vừa dứt lời, nàng thướt tha ngả vào lòng hoàng đế,