Như mọi khi, tuyết vẫn rơi vào cuối năm.
Vùng nọ có duy nhất một thôn nhỏ tách biệt trên núi cao, người ít nhà ít, không mấy dư dả nhưng quanh năm sáng tối chăm chỉ cày cuốc chăm nom vật nuôi cũng đủ sung túc.
Làm lụng cả năm, họ chỉ chờ dịp trước khi đông đến đem sản vật đi bán để đổi về những thứ cần thiết, lại nộp tô, xong cuối năm mùa đông không trồng trọt được thì người ta có thể ở nhà an nhàn tránh rét mấy tháng.
Tuyết thì càng ngày càng rơi nhiều, có khi còn có bão tuyết, cho nên thôn dân càng ít ra ngoài hơn.
Thi thoảng người ta vội vội vàng lo chuyện lặt vặt hay sang nhà khác tám chuyện trở về, ngẫu nhiên ngóng ra đầu thôn cũng đều thấy có một thiếu niên tóc bạc như ánh sao, khoác áo choàng lông trắng như tuyết.
Thiếu niên ấy, ngồi trong tòa tiểu các đầu thôn do chính y cho người xây nên.
Y lúc nào cũng vậy, dù bão táp mưa sa, dù tuyết rơi đầy trời nhưng chiều nào cũng đến rồi ngẩn ngơ trông ngóng về phương xa, đến khi tối mịt mới chịu về nhà.
Nhà thiếu niên nọ giàu lắm, to nhất thôn.
Người ta hay khoa trương rằng, phải chạy nửa ngày mới hết một vòng nhà y.
Y năm nay đang độ mười tám, thanh tú xuất trần, văn hay chữ tốt, cầm kì thi họa đều đủ cả.
Đáng tiếc thay, vì một tai nạn mà từ nhỏ y đã thương tật cả hai chân, từ đó chỉ có thể ngồi kiệu hoặc xe lăn loanh quanh.
Cha mẹ y mất năm mười tuổi, để lại y một mình bơ vơ trong tòa nhà còn lớn hơn cả cung điện vua chúa cùng với biết bao sản nghiệp và một chục người làm.
Dù cho có thương tật nhưng tính tình y tốt, nhà lại giàu, nên mấy cô nương trong thôn thích y lắm, ai cũng nghĩ nếu được gả cho y thì phú quý cả đời.
Mỗi tội thiếu niên ấy "giữ mình", mãi chẳng động lòng với ai cả.
Về nguyên do thiếu niên ngày ngày ra trông ngóng ở đầu thôn thì ai cũng biết là đang chờ một người, chờ đến tận mấy năm mà người kia vẫn chưa về.
Chuyện rằng: Sau khi cha mẹ thiếu niên mất, y cứ sống quanh quẩn một chỗ.
Sáng ngắm mặt trời mọc, tối trông mặt trời lặn, ngày luyện chữ, đêm đọc sách, quanh quanh quẩn quẩn, nhàm nhàm chán chán, tưởng chừng đến chết cũng không hề thay đổi.
Nhưng không, ngày tháng nhàm chán kết thúc khi năm thiếu niên nọ mười ba tuổi.
Lúc ấy, có một người thương nhân trẻ tuổi từ phương xa tới mua lại căn nhà sát vách thiếu niên, cơ duyên thể nào mà lại quen biết rồi trở thành bằng hữu tốt nhất với thiếu niên nọ.
Người thương nhân kia, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác đều rời đi làm ăn mấy chuyến.
Mỗi lần trở về, hắn đều mang cho thiếu niên rất nhiều thứ cùng tiền tranh thiếu niên nhờ hắn bán giúp.
Hắn còn kể cho thiếu niên nghe rất nhiều chuyện, về những nơi hắn đã đi, về những gì hắn đã gặp...!khiến thiếu niên vô cùng thích thú.
Hai người tuổi tác không cách xa lắm, dần dà hai chữ tri kỉ đến cùng cũng khó mà tả được mối quan hệ thân thiết ấy.
Được mấy năm, đột nhiên thương nhân trẻ nọ không quay lại nữa.
Thiếu niên ban đầu là ngóng trông hắn trước hiên nhà, sau lại ngóng trước cổng nhà, cuối cùng cho hẳn người xây tiểu các ở đầu thôn mà ra đấy chờ.
Chờ tận ba năm.
Lúc này trong tiểu các ngoại trừ thiếu niên còn có người hầu, một nam một nữ, gọi là Tiểu Nhị và Tiểu Tam.
Ai cũng đều sốt ruột.
"Thiếu gia, tuyết lớn quá, chúng ta mau về thôi, kẻo chốc nữa lạc trong mưa tuyết dày đặc đấy."
Phù Uyên thay đổi tư thế ngồi, khẽ cười thành tiếng: "Thôn núi bé xíu này, đi hai vòng còn không mỏi chân, bảo lạc là lạc thế nào."
Tiểu Nhị và Tiểu Tam thầm nghĩ, thiếu gia đi mấy vòng cũng là bọn hạ nhân họ khiêng kiệu đẩy xe, mỏi chân thế nào được?
Đột nhiên có người trong thôn đi qua gần đó, bộ dạng gấp gáp như lâm đại dịch, thấy mấy người Phù Uyên thì đứng lại, gọi to: "Phù công tử?"
Nét mặt Phù Uyên rất ôn hòa, cao giọng đáp lại: "Có chuyện gì vậy dì Chu?"
"Haiz, đứa nhỏ này, không biết trong thôn ta bây giờ có dịch bệnh đang tác oai quái sao? Con trai nhà Lí Trương vừa mới chết rồi, bây giờ ai nấy đều đóng chặt cửa.
Ngươi cũng nên về đi, ngày mai không ra nữa, kẻo lây bệnh vào người thì khổ." - Người được gọi là dì Chu gấp gáp đáp lại rồi lại gấp gáp đi, có lẽ là vội về nhà.
Hai người Tiểu Nhị và Tiểu Tam nghe vậy liền tái xanh cả mặt mày, nhưng Phù Uyên thì không như vậy.
Y chậm chạp "à" một tiếng, rất hờ hững, rất lạnh nhạt, nói: "Vậy thì về nhà."
...!
Hai hôm sau, tuyết ngừng rơi.
Không còn tiếng gió dữ đập cửa ồn ào nữa, nhưng thay vào đó lại là vô số tiếng khóc than thương tâm.
Trận dịch này đã có gần một phần ba người trong thôn chết.
Trẻ nhỏ hay người già ốm yếu đều không chịu được mà đi trước, người khỏe mạnh hơn thì cũng dần dần đổ bệnh, ai nấy đều hoang mang lo sợ.
Ngay cả đại phu duy nhất trong thôn cùng con gái cũng chết, chẳng ai biết cứu chữa