TÍCH 2: Ngọc Tỳ Bà
( trích từ Bài ký một giấc mộng của vua Lê Thánh Tông)
“Nhân Tông gặp loạn Nghi Dân. Ta mới lên ngôi, nghĩ đến việc trước mà luôn luôn phải phòng ngừa. Thường dàn sáu quân thân hành đi kiểm soát. Một hôm gặp mưa to, đóng lại trên bờ hồ Trúc Bạch ở Mỏ Phượng. Trong cơn mưa u ám, phảng phất có tiếng khóc than thảm thiết. Khi ta truyền mọi người lắng nghe thì không thấy gì, nhưng đến khi gió lớn mưa to thì lại nghe thấy như trước. Ta ngờ vực, rót chén rượu, hắt ra phía có tiếng khóc, khấn thầm rằng:
– Trẫm trên nhờ oai linh của tổ tông, dưới dựa vào bầy tôi giúp sức, sinh, sát, thưởng, phạt, đều nắm trong tay. Ai uất ức, đau khổ, ta có thể giải đi được. Ai có công đức ngầm kín, ta có thể nêu lên được. Khấn với các thần ở địa phương, nếu có u hồn nào còn uất ức thì bảo chúng cứ thực tâu bày. Cớ sao gió mưa thì nghe thấy tiếng, lờ mờ không rõ, như khóc như than, nửa ẩn nửa hiện, trong tình u oán có ý thẹn thùng, làm cho ta sinh lòng nghi hoặc, muốn nêu lên không rõ công đâu mà nêu, muốn giải cho không biết oan mà giải. Trẫm không nói lại lần nữa, bảo cho các thần biết.
Khấn xong, ta xem hoa cỏ phía ấy tựa hồ có ý cảm động, khiến ta cũng sinh lòng thương xót. Ta liền sắc cho các tướng truyền quân sĩ chỉnh tề ngũ về cung.
Các tướng hộ giá đều phục đằng trước tâu rằng:
– Từ khi thánh thượng chính ngôi đến nay, dân chúng thảy đều thần phục, há đâu có sự bất ngờ. Nay trời rét như cắt, lại thêm mưa gió lạnh lùng, dù ơn vua rộng khắp, ba quân đều có lòng cắp bông báo ơn chúa (1), nhưng đội mưa ra về, dân chúng sẽ nghi là có việc khẩn cấp. Cúi xin đóng tạm ở hành tại, đợi khi mưa tạnh trời quang, truyền mở cửa tây, chỉ trăm bước là về tới chính cung.
Ta gượng theo ý chư tướng, hạ lệnh ngủ đêm ở đó. Ðêm khuya mộng thấy hai người con gái rất đẹp đội một phong thư, phục xuống trước mặt tâu rằng:
– Chị em thiếp trước thờ vua Lý Cao Tông, rất được nhà vua yêu dấu. Không may vận rủi thời suy, bị kẻ gian là Trần Lục bắt trộm, đem đi trốn, định bán chị em thiếp cho người ta bằng một giá đắt, nhưng bị người láng giềng trông thấy, nó sợ tội nặng, nên đem chị em thiếp giam ở địa phương này. Tới nay đã hơn hai trăm năm. May sao nhà vua đi tuần qua đây, có lòng thương xót mọi người, nên chị em thiếp liều chết đến dâng thư, mong được ra ngoài hang tối, thấy bóng mặt trời.
Rồi đặt thư lên án, vừa khóc vừa lạy mà lui ra.
Ta tỉnh giấc, trông lên án, quả có một phong thư. Trong lòng nghi ngại, vội mở ra xem thì ấy một tờ giấy trắng ngang dọc đều độ một thước, trên có bảy mươi mốt chữ ngoằn ngoèo như hình giun dế, không thể hiểu được.(i) Dưới cùng có hai bài thơ.
Bài thứ nhất rằng:
Cổ nguyệt lạc hàn thủy,
Ðiền ôi vị bán âm.
Dạ dạ quân kim trọng,
Thê thê thiên lý tâm.
Nghĩa là:
Mặt trăng xưa rơi xuống nước lạnh,
Góc ruộng vì thế mà tối mất một nửa.
Ðêm đêm cân vàng nặng,
Ðau xót lòng ngàn dặm.
Bài thứ hai:
Xuất tự Ba Sơn sự nhị vương,
Tị lân đầu thượng lưỡng tương phương.
Hậu lai giá đắc kim đồng tử,
Không đời đào chi vĩnh tự thương.
Nghĩa là:
Ra tự núi Ba Sơn thờ hai vua,
Trên đầu liền xóm hai người sánh đôi.
Ðến sau gả cho kim đồng,
Uổng công đội cành đào,
cảm thấy đau xót mãi mãi.
Ta nghĩ đi nghĩ lại hai ba lần, nhưng vẫn chưa hiểu ý. Sáng hôm sau ta vào triều, vời học thần nội các đến, thuật rõ việc ấy, đưa hai bài thơ cho mọi người xem để giải nghĩa.
Các họa sĩ đều nói:
– Lời nói của quỷ thần rất huyền bí, không thể giải đoán ngay được. Xin bệ hạ cho phép chúng tôi nghĩ kỹ xem thế nào rồi sẽ xin tâu lại.
Trải qua ba năm, không ai biết hai bài thơ có ý nói gì.
Một hôm ta ngủ trưa, mộng thấy người tiên thổi địch gặp ở Hồ Tây