Cô ta mặc áo khoác trắng, áo blouse lụa màu vàng, đội mũ bằng vải vinyl màu đỏ. Theo phản xạ, tôi đứng dậy đối diện với cô ta. Hiển nhiên có thể gọi cô ta là "đẹp". Ít nhất là đẹp hơn nhiều so với tôi hình dung khi nghe giọng qua điện thoại. Thân hình cân đối, thon thả, trang điểm chừng mực. Cô ta biết cách ăn mặc. Áo khoác và áo blouse cắt may tuyệt khéo. Trên cổ áo khoác lấp lánh một cái ghim bằng vàng hình lông chim. Nhìn bên ngoài có thể cho cô ta là thư ký của một công ty tầm cỡ nào đó. Duy có chiếc mũ đỏ là không hợp tí nào. Chẳng hiểu tại sao, sau khi bỏ công chăm chút ngần ấy cho quần áo cô ta lại đội lên đầu cái mũ bằng vải vinyl màu đỏ không đâu vào đâu kia. Chắc hẳn cô ta làm thế để người ta dễ nhận ta cô trong những tình huống như thế này. Nếu quả vậy thì ý đó thật không tồi. Giữa đám đông người, cô ta nổi bật lên ngay.
Cô ta ngồi xuống chiếc ghế đối diện tôi, tôi thì ngồi xuống ghế của mình.
- Lạ nhỉ, làm sao cô biết là tôi, - tôi nói. - Tôi không tìm ra cái cà vạt chấm hạt đỗ. Tôi biết chắc nó ở đâu đó thôi, nhưng không cách nào tìm ra. Nên tôi đành phải đeo cà vạt kẻ sọc. Tôi cứ nghĩ mình sẽ phải tìm cô, nhưng làm cách nào cô lại nhận ra tôi thế?
- Dĩ nhiên là tôi biết ông, - cô ta vừa nói vừa đặt chiếc xách tay màu trắng lên bàn. Cô ta giở chiếc mũ màu đỏ ra, đậy kín lên chiếc xách tay. Tôi có cảm tưởng cô ta sắp biểu diễn một trò ảo thuật: khi cô ta nhấc mũ lên, chiếc xách tay đã biến mất.
- Nhưng tôi đeo cà vạt khác mà, - tôi độp lại.
- Cà vạt khác nào nhỉ? - Cô ta liếc nhìn cái cà vạt của tôi với vẻ băn khoăn, như thể muốn nói: Cái gã dở người này đang nói chuyện gì ấy nhỉ? Rồi cô ta gật đầu: - Chuyện ấy không quan trọng, xin ông chớ bận tâm.
Đôi mắt cô ta có cái gì đó thật lạ. Chúng thiếu chiều sâu một cách bí hiểm. Đôi mắy ấy đẹp thì đẹp thật, nhưng dường như chúng chẳng nhìn bất cứ cái gì. Chúng phẳng lì, như thể làm bằng thủy tinh. Song, dĩ nhiên đó không phải là cặp mắt thủy tinh. Chúng chuyển động, chớp chớp mi mắt, như mọi cặp mắt bình thường.
Làm sao cô ta nhận ra tôi trong đám đông ngồi chật cứng quán cà phê này? Thật không hiểu nổi. Hầu như ghế nào cũng có người, trong số đó có nhiều người trạc tuổi tôi. Tôi muốn yêu cầu cô ta giải thích, nhưng kìm mình lại. Tránh khơi lên những chuyện ngoài lề thì tốt hơn.
Cô ta vẫy tay một hầu bàn đi ngang qua, gọi một suất Perrier. Anh ta bảo nhà hàng không có Perrier, nhưng có thể thay bằng nước tonic. Cô ta suy nghĩ một chút rồi đồng ý. Trong khi đợi nhà hàng mang nước tonic ra, cô ta im lặng, tôi cũng vậy.
Đến một lúc, cô ta nhấc cái mũ đỏ lên, mở khuy móc cài chiếc xách tay nằm bên dưới, rút từ trong đó ra một hộp da đen bóng nhỏ hơn chiếc băng cát sét đôi chút. Đó là một chiếc hộp con đựng danh thiếp. Cũng như chiếc xách tay, nó được cài bằng khuy móc - lần đầu tiên tôi thấy một hộp đựng danh thiếp cài khuy móc như vậy. Cô ta rút trong hộp ra một tấm danh thiếp trao cho tôi. Tôi bèn đút tay vào túi ngực tìm danh thiếp của mình thì mới nhận ra rằng trong người chẳng có tấm nào.
Danh thiếp của cô ta làm bằng nhựa mỏng, hình như thoảng mùi trầm hương. Khi đưa nó lại gần mũi, mùi hương đó càng rõ rệt. Không nghi ngờ gì nữa: chính là trầm hương. Danh thiếp mang vỏn vẹn một dòng chữ cái màu đen:
Kano Malta
Malta? Tôi lật xem mặt bên kia. Nhưng ở đó chẳng có gì.
Trong khi tôi ngẫm nghĩ về ý nghĩa của tấm danh thiếp, tay hầu bàn đến đặt trước mặt cô ta một chiếc cốc đầy nước đá rồi rót nước tonic đến lưng chừng cốc. Trên vành cốc có găm một mẩu chanh. Rồi một cô hầu bàn đến, tay bưng khay đựng một ấm cà phê màu bạc. Cô ta đặt một chiếc tách trước mặt tôi rồi rót cà phê vào. Sau đó len lén như kẻ đang dúi những que xăm xúi quẩy vào tay người khác, cô ta để hóa đơn lên bàn rồi bỏ đi.
- Ở đấy chẳng có ghi gì đâu, - Kano Malta bảo tôi.
Tôi vẫn đang nhìn chăm chăm nhìn vào mặt sau của tấm danh thiếp.
- Chỉ có tên tôi mà thôi. Không cần ghi địa chỉ hay số điện thoại. Chẳng ai gọi điện cho tôi cả. Tôi luôn luôn tự gọi cho người khác.
- Tôi hiểu, - tôi nói. Câu trả lời vô nghĩa đó treo lơ lửng trong không trung một hồi như hòn đảo bồng bềnh trên bầu trời trong Gulliver du ký.
Giữ cốc bằng cả hai tay, cô ta uống một ngụm nước qua ống hút. Khuôn mặt thoáng cau lại, cô ta đẩy cốc sang bên, như thể không quan tâm gì đến nó nữa.
- Malta không phải là tên thật của tôi, - Kano Malta nói. - Kano là họ thật, nhưng Malta là biệt danh nghề nghiệp. Theo tên hòn đảo Malta. Ông Okada đã bao giờ đến Malta chưa?
Tôi bảo là chưa. Tôi chưa bao giờ đến Malta, cũng chưa có kế hoạch đến Malta trong tương lai gần. Thậm chí tôi chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ đó. Tất cả những gì tôi biết về Malta là bản nhạc jazz kinh khiếp của Herb Albert có tựa đề Cát Malta.
Tôi gật đầu, nhấp một ngụm cà phê.
- Vâng, nước ở Malta mùi vị thật khó chịu, nhưng một nguồn nước ở đó lại có tác dụng kì diệu lên cấu trúc thân thể của chúng ta. Đó là một thứ nước đặc biệt, thậm chí phải nói là huyền bí, chỉ một nơi duy nhất trên đảo mới có mà thôi. Dòng suối đó ở sâu trong núi, phải trèo mấy tiếng đồng hồ từ một ngôi làng dưới chân núi mới lên tới được. Nước ấy không thể vận chuyển đi nơi khác. Nếu mang đi nơi khác, nó sẽ mất hiệu lực ngay. Cách duy nhất để uống nước ấy là phải tự mình đến tận nơi. Người ta thường nhắc đến thứ nước này trong các văn bản từ thời Thập tự chinh. Người ta gọi nó là nước thần. Allen Ginsberg từng đến uống nước đó. Keith Richard cũng vậy. Tôi đã sống ở đó suốt ba năm trong ngôi làng nhỏ dưới chân núi. Tôi trồng rau và học nghề đan. Ngày nào tôi cũng leo lên dòng suối để uống thứ nước đặc biệt ấy. Từ năm 1976 đến năm 1979. Có lần, suốt một tuần, tôi chỉ uống nước đó mà không ăn một tí gì. Suốt một tuần không được cho cái gì khác vào miệng ngoại trừ thứ nước đó. Đó là một sự huấn luyện mà ai cũng phải làm. Theo tôi có thể gọi đó là một kiểu tu hành. Ta làm thế là để thân ta thanh khiết. Đối với tôi, cảm giác đó thật kỳ diệu. Vì vậy khi trở về Nhật, tôi chọn Malta làm biệt danh nghề nghiệp của mình.
- Xin lỗi, cho tôi hỏi nghề của cô là gì?
Cô ta lắc đầu.
- Nói đúng ra đấy không phải là nghề. Tôi làm không lấy tiền. Tôi là chuyên gia tư vấn. Tôi trò chuyện với mọi người về các thành tố của cơ thể. Tôi cũng nghiên cứu về loại nước có tác dụng tốt đối với các thành tố của cơ thể. Kiếm tiền không phải là chuyện khó đối với tôi. Tôi có tất cả các phương tiện mình cần. Cha tôi là bác sỹ, ông có mua cổ phiếu và bất động sản cho thuê nhắm chu cấp cho tôi và em gái tôi. Tôi có một kế toán lo sổ sách thu chi. Thu nhập hàng năm của tôi khá bộn. Tôi cũng viết vài cuốn sách kiếm được ít tiền. Còn việc tư vấn về các thành tố của cơ thể, tôi làm không vì lợi nhuận. Chính vì vậy, danh thiếp của tôi không có địa chỉ lẫn số điện thoại. Tôi luôn chủ động gọi cho người khác.
Tôi gật đầu, nhưng đó chỉ là cử động thuần tuý vật lý của cái đầu: tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì những điều cô ta nói. Tôi có thể hiểu những từ cô ta nói, nhưng ý nghĩa chung của chúng thì không sao nắm bắt được.
Các thành tố của cơ thể?
Allen Ginsberg?
Càng lúc tôi càng bứt rứt khó chịu. Tôi không phải loại người có trực giác thiên phú, nhưng càng ngồi lâu với người đàn bà này, tôi càng như ngửi thấy mùi những điều phiền toái.
- Xin lỗi cô, - tôi nói, - không biết cô có thể giải thích mọi chuyện từ đầu, từng bước một được chăng? Vừa rồi tôi có nói chuyện với vợ tôi, cô ấy bảo tôi gặp cô để bàn chuyện con mèo đi lạc. Thành thật mà nói, tôi không hiểu nãy giờ cô nói những điều kia với tôi để làm gì. Có liên quan gì đến con mèo không?
- Có chứ. Nhưng trước khi đề cập tới việc đó, có một điều tôi muốn báo cho ông biết, thưa ông Okada.
Cô ta mở khóa xách tay, lấy ra một cái phong bì trắng. Trong phong bì có một bức ảnh, cô đưa cho tôi. "Em gái tôi", cô nói. Đó là một bức ảnh màu chụp hai phụ nữ. Một người là Kano Malta, trong một bức ảnh cô cũng đội mũ, một chiếc mũ đan màu vàng. Một lần nữa cái mũ rõ ràng không hợp với quần áo cô ta mặc. Cô em gái mặc bộ đồ màu lam nhạt, đội một chiếc mũ cùng tông, loại mũ thịnh hành vào thập niên 1960. Tôi nhớ đâu như tông màu này được gọi là tông "màu kem quả". Tuy nhiên, có một điều chắc chắn: hai chị em đều thích đội mũ. Kiểu tóc của cô em chính là kiểu của Jacqueline Kenedy hồi còn là phu nhân tổng thống, keo xịt tóc bóng nhẫy. Cô ta trang điểm hơi quá tay, tuy nhiên vẫn có thể gọi là đẹp. Cô ta trạc hai mươi lăm tuổi. Tôi đưa trả bức ảnh cho Kano Malta, cô cất ảnh vào phong bì, đút phong bì vào xách, cài khóa móc lại.
- Em gái tôi nhỏ hơn tôi năm tuổi. Nó bị Wataya Noburu phá trinh. Cưỡng hiếp tàn bạo.
Ôi chao! Tôi muốn đứng phắt dậy mà bỏ đi, không nói không rằng, ngay lập tức. Nhưng không thể làm thế được. Tôi rút khăn mùi soa khỏi túi áo -lê, lau miệng rồi lại đút vào. Rồi tôi hắng giọng.
- Thật kinh khủng, - tôi thốt lên. - Tôi không hề biết chuyện đó. Nếu em gái cô đã bị cưỡng hiếp, tôi xin