Tôi cảm thấy sức lực đang dần rời bỏ mình. Xung quanh tôi là một màu đỏ của máu. Sau hành động xiên cá cuối cùng, tôi không còn sức để ngoi lên nữa. Sinh nghề tử nghiệp, có lẽ tôi lại bỏ mạng nơi đây? Trước giờ tôi luôn giữ đồng tiền phép thầy cho bên người, giờ nó đã nằm lại dưới đáy sông, đại vận của tôi có lẽ cũng chỉ đến đây. Tôi thoáng thấy gương mặt của mẹ tôi bập bùng trong làn nước.
Bất chợt thắt lưng tôi được túm chặt rồi lôi lên...
***
Thầy Vĩnh được kéo lên trên thuyền, người rũ ra như một xác chết, không còn chút thần trí nào.
Chiếc thuyền được chèo vào bờ, trong lúc đó, thấy Lộc cùng những người khác ra sức hồi cứu. Thầy Lộc điểm huyệt nhưng vẫn không thấy có dấu hiệu hồi tỉnh. Từ miệng thầy Vĩnh máu không ngừng tuôn ra. Có lẽ lục phủ ngũ tạng cũng đang rỉ máu. Trong trận đại chiến vừa rồi, có lẽ thầy đã dùng toàn bộ khả năng của mình.
Thầy Vĩnh được đưa lên bờ, mọi người vây quanh. Ông Mười ra sức hồi sức tim phổi nhưng không thấy phản ứng gì. Vĩnh vẫn không thở. Trông hai người thầy đều xơ xác, máu me bê bết khắp người. Người dân đã gọi cấp cứu. Thầy Lộc thở dài, có lẽ đi bệnh viện giờ cũng không kịp nữa. Hiệp đứng bên cạnh hoảng hốt và bụm miệng khóc. Những vết ấn đen trên cổ cô đã biến mất.
Thầy Lộc nhờ cởi áo Vĩnh ra. Ông lôi ra chiếc bọc màu đỏ vừa ấn vào ngực Vĩnh ở dưới sông, mở ra. Bên trong là một nắm đất xốp tơi, thầy Lộc trải ra khắp ngực, bụng của Vĩnh. Ông ta tháo chiếc vòng ngọc đang đeo trên cổ, nâng lên trán cầu nguyện rồi tròng vào cổ thầy Vĩnh, đặt ngay ngắn trước ngực. Thế rồi thầy thảo thật nhanh một lá bùa vàng vẽ hình người lên giấy vàng rồi dán lên mặt thầy Vĩnh. Thầy Lộc bắt đầu lẩm nhẩm chú và điểm huyệt thêm 1 lần nữa.
Đất và ngọc này, thầy Lộc đã lặn lội mấy ngày lên tận Huế để tìm. Thầy không biết rõ Vĩnh định làm gì nhưng thầy hiểu rằng cần mở trận địa diệt Thủy thì phải có nguyên tố Thổ và thầy đi tìm đất thiêng. Thầy đã lặn lội tới những bờ sông hoang dại nhất của con sông Hương, nơi chưa có thành thị xâm lấn để lấy lên những thổ nhưỡng nguyên thủy nhất. Sau đó thầy đã tới thăm chùa Thiên Mụ để xin mượn ấn. Chùa Thiên Mụ nằm ngay bên bờ sông Hương, nơi nhiều âm khí, ma da quỷ nước rất nhiều. Chính nhờ có ấn đó mà chùa Thiên Mụ giữ được sự trong sạch, thanh nghiêm, không bị nhiễm tà khí của con sông, vẫn sừng sững ở đó như một biểu tượng của kinh đô Huế. Phải mất mấy ngày thuyết phục và đánh đổi nhiều thứ, thầy Lộc mới có thể mượn chiếc ấn ngọc về. Có ấn ngọc thì uy lực của người thầy pháp sẽ được nâng cao lên nhiều khi đối đầu với ma da.
Khi vừa về tới đảo, thầy Lộc đã nhận ra Vĩnh đã triển khai trận địa diệt quỷ, lặn cả xuống nước để tru diệt.Thế nhưng khi đứng trên bờ ông nhận ra trong trận địa chưa có ánh sáng hắt lên của Thổ trong đó, nguyên tố thiết yếu và rất quan trọng. Trong lúc bước lên thuyền, do va vấp mà bọc đất thầy Vĩnh đem theo đã bị rơi xuống sông. Thầy Lộc bèn hơ đám đất thiêng trên lửa cùng hương thảo mộc để cho đất nóng rẫy lên. Sau đó thầy bọc vào tấm vải đỏ và lao xuống sông. Vừa hay lúc thầy Vĩnh cần ứng cứu.
Sau vài lần điểm huyệt, thầy Vĩnh vẫn không thấy tỉnh lại. Ánh sáng của những luân xa gần như đã tắt hẳn. Chẳng nhẽ ông ấy sẽ ra đi mãi mãi như thế này sao? Thầy Vĩnh ngấm nước sâu, âm khí nhiều, dương khí không còn bao nhiêu nữa. Thầy Lộc ôm đầu nói: "Hỏng rồi, dương khí yếu quá không thông kinh huyệt được!"
Hiệp run run nói: "Trước khi mở trận địa này, anh Vĩnh có nói với tôi là....anh đã bỏ đồng tiền thiêng được trì chú theo mình hai mấy năm bảo vệ anh ấy, để hoàn thành trận địa ở trạng thái tốt nhất..Có phải vì thế mà...?"
"Nó có vẽ hình gì? Cô còn nhớ không? Đồng tiền đó giờ đang ở đâu?". Thầy Lộc vội hỏi. Theo 2 mấy năm, chắc chắn có lưu dương khí và tinh thể của người cầm nó. Nếu là đồng tiền Thái Dương thì còn thu hút năng lượng nhiều hơn nữa.
Chẳng nói chẳng rằng, Hiệp vớ lấy chiếc xẻng nằm giữa đống dụng cụ ngổn ngang bên bờ sông rồi nhảy thẳng xuống sông bơi ra giữa dòng. Người dân không hiểu gì, chỉ giục mọi người đưa thầy Vĩnh đi cấp cứu.
Hiệp lội ra giữa dòng sông, lặn vào giữa trận địa bằng cọc gỗ. Cô lặn sâu tận dưới đáy sông, ra sức dùng xẻng, tay bới đào để tìm vật cần tìm. Trong lòng Hiệp hoảng hốt và đau đớn. Hiệp cũng sợ mất thầy Vĩnh. Tay cô bới được bọc vải đỏ dưới sông, được buộc chặt bởi những sợi dây chun. Hiệp bới lên và vội vàng đem vào bờ.
Thầy Lộc tháo sợi chun, lấy ra đồng tiền cổ to bằng nửa lòng bàn tay, ở giữa có lỗ và khắc chữ cổ, đằng sau chạm khắc hình mặt trời. Đó chính là đồng tiền Thái Dương rất hiếm. Thầy Lộc đặt đồng tiền lên hõm cổ của Vĩnh, ấn chặt.
"Hồi sức tiếp đi!" Thầy Lộc nói.
Hiệp luống cuống nãy giờ nhưng cuối cùng cũng quyết định làm một hành động táo bạo. Cô ở trong đội cứu hộ của đảo nên những bước sơ cứu cô đều nắm rõ. Hiệp sẽ hô hấp nhân tạo, lúc này có lẽ sẽ hiệu quả hơn hồi sức tim phổi. Hiệp nâng cổ thầy Vĩnh lên cao, khẽ bóp mũi và kề đôi môi còn ướt nước vào sát đó. Đôi môi cô run rẩy, cuối cùng cũng chạm vào đôi môi đã lạnh ngắt của thầy Vĩnh.
Thầy Lộc tiếp tục ấn huyệt và niệm chú.
*** (Trở về cái nhìn của thầy Vĩnh)
Tôi thấy mình đang ngồi ở trước hiên nhà năm nào. Ánh sáng ban ngày nhẹ nhàng và không chói gắt. Tôi không rõ tại sao mình lại trở về đây.
Bất chợt một bóng người hiện lên ở cánh cổng trồng đầy cây dâu da, một bóng hình hết sức quen thuộc.
"Mẹ!..." Tôi khẽ nói, một mảng ký ức nhạt màu đầy tươi đẹp hiện lên trong lòng khiến tôi cảm thấy đau đớn. Tôi đi lại gần mẹ. Thật buồn cười, tôi thì đã già, hơn cả tuổi mẹ năm đó, mà giờ mẹ tôi vẫn trẻ đẹp như vậy.
"Vĩnh con!"...Tôi khẽ lại gần ôm chầm lấy mẹ, hơi ấm đã lâu lắm rồi tôi không còn cảm nhận được nữa.
Mẹ con tôi nói về những năm tháng đã qua, về việc tôi đã sống như thế nào, bố tôi cùng họ hàng ra sao...Bố tôi giờ đã đi bước nữa, tôi không ghét dì nhưng tôi cũng không hay về thăm họ, tôi cảm giác như mình là một thứ thừa thãi trong gia đình của họ cùng với mặc cảm tội lỗi năm xưa khiến tôi không còn thân thiết được với bố nữa.
"Hôm nay con