Thời gian nhảy lò cò đến nửa năm sau. Nửa năm ấy cuộc sống của anh hết sức tẻ nhạt vụn vặt, thậm chí còn chẳng biết miêu tả như thế nào. Mặc dù cứ đến Tết âm lịch Trần Hải Thiên lại có thói quen tổng kết lại một năm, lý trí phân tích xem xét đánh giá lại quá khứ. Nhưng cuối năm nay, anh chỉ rút ra một kết luận sơ sài: “Gặp gỡ đều đặn nhưng không hề có bất cứ tiến triển nào trong tình cảm.”
Anh vẫn giữ lệ cũ, mỗi tháng đến Đài Trung một lần. Dù sao cuối tuần quán cà phê cũng chỉ nghỉ bán một ngày, còn đống việc lằng nhằng như nhập hàng xuất hàng đang chờ anh giải quyết. Và bởi anh còn muốn dành riêng thời gian cho mình, nên tóm lại một tháng đi được một lần đã là tối đa rồi.
Theo thời gian, anh chiên đậu phụ thối càng ngày càng điêu luyện, kỹ năng chiên đồ cũng cải thiện trông thấy. Giờ anh đã có thể xử lý ngon ơ món bít tết heo mà anh suốt ngày rán cháy hoặc không chín hồi trước.
Đôi khi anh cũng phụ Trang Tuyết muối bắp cải, nhìn Trang Tuyết tước bắp cải, bào nhỏ cà rốt, đổ lượng đường phèn và giấm hoa quả chính xác vào bên trong. Anh đứng ở bên, dùng ngón tay bẻ tẽ những phiến lá bắp cải bất quy tắc, lựa ra những phần cuống dày rồi lấy bào gọt mỏng.
Sau mấy lần đi đi lại lại, anh đã hình thành một số thói quen: nếu như đến Đài Trung thì sẽ ngồi cao tốc, vì ban ngày thời gian ngắn ngủi, nhưng nếu như đi từ Đài Trung về Đài Bắc thì sẽ ngồi xe khách, vì đêm dài dằng dặc. Hay như uống một cốc hồng trà to đùng có 20 Đài tệ, ngồi trên ghế tròn chờ hoàng hôn, nhìn thiên tài Trang Tuyết biểu diễn công phu gắp gấu bông, và làm một mẻ pound cake[1] thơm ngon cho Trang Tuyết.
Nửa năm này anh say đắm mê mệt mùi vị bơ thơm nồng và cả kết cấu đặc chắc của pound cake. Khách ruột của cửa hàng và ba người bạn bị anh nhồi cho tới nỗi cân nặng tăng vọt. Điều đáng mừng là tay nghề làm bánh của anh đã đạt tới mức xịn sò như mì Ý, và anh cũng không cho thêm đậu phụ thối vào trong bánh như lời cảnh cáo hung bạo của Lương Mĩ Lị.
So với anh thì Trang Tuyết đến Đài Bắc nhiều hơn, nhưng cũng chỉ hơn được vài lần. Trừ việc đến chỗ Trần Hải Thiên uống cà phê ra thì thi thoảng y cũng gặp Võ Đại Lang hoặc vài người bạn khác ăn uống. Có hai lần thậm chí mới 9 giờ sáng y đã đến Đài Bắc để bàn bạc với bên xuất bản một số vấn đề trong dịch thuật. Lúc ấy Trần Hải Thiên sẽ dậy trước buổi trưa, làm bữa trưa đơn giản, đợi Trang Tuyết xong việc thì qua. Hai người sẽ ngồi trong quán cà phê hẵng chưa mở cửa ăn cơm, uống cà phê. Sau đó Trang Tuyết lại vội vàng về Đài Trung bán đậu phụ thối, còn Trần Hải Thiên đi ngủ bù cơn ngủ lúc nãy.
Trong khoảng thời gian này, anh cũng biết thêm rất nhiều điều về Trang Tuyết.
Trang Tuyết nhỏ hơn anh một tuổi, lại còn sinh vào cuối năm, nên theo lý thuyết thì sẽ nhỏ hơn anh hai tuổi. Song hồi tiểu học do số người đi học không đủ nên Trang Tuyết đã đi học trước thời hạn, cộng thêm việc y nhảy từ lớp 5 lên lớp 7, do đó hai bọn họ vào đại học cùng năm, mà lại còn học cùng một trường đại học.
“Tôi có nhảy lớp cũng đâu chứng tỏ là tôi thông minh, chỉ đơn giản là tôi học xong kiến thức của lớp 6 sớm hơn thôi mà.” Trang Tuyết sung sướng ăn bánh trứng nướng ông ngoại Trần Hải Thiên làm, chân thành giải thích: “Hồi đó cả ngày tôi với em tôi đánh nhau tới tối mịt, đánh xong thì bị mẹ tôi cấm túc bắt làm bài. Càng đánh nhau nhiều thì phải học càng nhiều, lúc làm xong hết chẳng còn gì để làm nữa, mẹ tôi đành lấy sách cấp hai dạy tôi, rồi tôi nhảy lớp thôi. Bởi vậy nếu muốn nhảy lớp thì phải đánh nhau nhiều vào.”
“Em gái cậu cũng nhảy lớp à?”[2]
“Ừ, còn nhảy hai lần nữa cơ, nên nó cũng vào đại học cùng năm với chúng ta.”
Trước những lý lẽ hết sức ngông nghênh nghe chừng vô cùng phi lý của Trang Tuyết, Trần Hải Thiên hoàn toàn không tìm ra luận điểm phản bác, chỉ đành ngậm miệng uống cà phê tiếp. Dầu sao so với chuyện nhảy lớp, việc Trang Tuyết và Lương Mĩ Lị là bạn học cùng khoa cùng khóa còn khiến anh kinh ngạc hơn.
Sau khi Trang Tuyết tốt nghiệp, y đi Anh học một năm. Khi lấy được bằng thạc sĩ, y tiếp tục đi Mỹ học tiến sĩ, hai năm sau tạm nghỉ học về Đài Loan, dạy lớp học thêm tiếng Mỹ ở Đài Bắc, đôi lúc cũng nhận dịch một số văn bản tài liệu. Y làm công việc này trong hai năm chỉ để trả số tiền học phí đã vay, chứ thực ra y cũng chẳng thích mà cũng chẳng ghét nó.
“Tôi thích học hành, nghe thì như tự khen mình nhưng tôi học rất đỉnh, như được hack thăng cấp vậy, học vừa nhanh vừa giỏi. Chỉ là, tất cả quá trôi chảy như lẽ dĩ nhiên, học xong tiến sĩ thì sẽ ở lại Mỹ hoặc về Đài Loan, có thể làm giảng viên rồi cố gắng trở thành giáo sư, nghe cũng rất tuyệt ha…”
“Song đôi lúc cũng muốn biết liệu có lối đi khác cho cuộc đời không.” Trần Hải Thiên hiếm khi nói xen vào, anh hiểu cảm giác ấy, thứ cảm giác muốn biến bản thân thành một người khác đi, muốn sống một cuộc đời hoàn toàn khác.
“Ừ, có lúc cảm thấy nếu cứ tiếp tục sống như này thì đến khi già rồi, ngồi trên chiếc ghế ngẫm lại cả cuộc đời mình, chắc sẽ cảm thấy đau thương xót xa lắm. Vậy nhưng, sau khi trở về Đài Loan, trái tim tôi cứ nhức nhối không yên như bị treo giữa không trung. Dạo ấy, tôi cũng hơi sa đà lệch hướng, chơi bời rất điên cuồng… không phải kiểu bay lắc đàn đúm trai gái quan hệ thác loạn đâu, chỉ là ăn uống nhảy nhót quẩy bar rất hăng.”
“Tôi hiểu tôi hiểu.” Trần Hải Thiên đáp qua loa, anh không hề tò mò muốn đào sâu chuyện yêu đương quan hệ của bất kỳ ai trong quá khứ.
“Nhưng sau những cuộc vui tưng bừng tới bến ấy, linh hồn tôi càng thêm trống rỗng cô quạnh. Tôi đành lên mạng nhắn tin nói chuyện với người lạ. Thế rồi tôi gặp được anh, anh phản ứng rất nhanh lại còn hết sức lạnh lùng bình tĩnh, có lúc còn ác hơn cả tôi nữa, nói chuyện với anh rất rất vui. Có lẽ, trong khoảng thời gian ấy, anh là điều may mắn duy nhất mà tôi gặp được.” Trang Tuyết ăn đến miếng pound cake thứ ba, vừa ăn vừa liếm ngón tay.
“Ừ, cậu có biết lòng đỏ trứng có lượng cholesterol rất cao không hả?” Trần Hải Thiên lẳng lặng nói.
Mãi tới mùa hè năm ngoái, Trang Tuyết nhất thời chơi lớn, y nhận lại quán bán đậu phụ thối của cha mình. Sau khi về Đài Trung, những tạp âm ồn ã hỗn loạn trong trái tim y dần dần biến mất. Vài tháng sau, Trang Tuyết bất ngờ nhận dịch một quyển sách. Cũng có thể do tâm trạng đã thay đổi, lại cộng thêm sự khác biệt giữa dịch sách và dịch văn bản, nên công việc vốn vô cảm nhạt nhẽo bỗng trở nên dạt dào niềm vui hứng thú chưa từng có.
Trang Tuyết hình dung trạng thái đó là “bỏ mình nhập ma.” Dịch thuật không chỉ là một phương thức mưu sinh của y nữa, mà đã trở thành một thứ khiến Trang Tuyết say mê đắm đuối. Tuy nhiên, trong tương lai có thể đồng hành bầu bạn dài lâu với dịch thuật hay không, Trang Tuyết vẫn cần thời gian để xác nhận chắc chắn.
“Trước mắt tỷ số giữa dịch thuật và đậu phụ thối là 55:45.” Trang Tuyết nghiêm túc phân tích.
Sau tháng 10, Trang Tuyết dần dần chuyển từ đi đi về về ngay trong ngày sang cách ngày. Hai lần đầu Trang Tuyết đều ở lại quán cà phê tới hơn 9 giờ tối, sau đó ngồi tàu điện ngầm đến phía Nam thành phố ngủ nhờ ở nhà Võ Đại Lang.
Vào lần thứ ba, Trần Hải Thiên giữ Trang Tuyết lại qua đêm, ngủ trong phòng khách số hai trên tầng ba. Vì anh muốn biết, khi để Trang Tuyết bước vào tòa thành trong trái tim mình sẽ nảy sinh cảm xúc khác lạ nào, đồng thời cũng muốn biết Trang Tuyết sẽ tương tác ra sao với người ở phòng khách số một – Lương Mĩ Lị.
“Tốt lắm, rất thực tế.” Lương Mĩ Lị rất tán thành với quyết định đó.
“Tiết kiệm thời gian và sức lực thừa thãi.” Trần Hải Thiên đáp Lương Mĩ Lị với giọng điệu