Sau hai ngày nghỉ, Trần Hải Thiên ngồi tàu hỏa tròng trành đến Trung Lịch. Anh ngồi trên tàu, nghe tiếng đường ray ken két, ngắm nhìn những tòa nhà công trình thoắt ẩn thoắt hiện ngoài cửa sổ, ngáp vài cái, cuối cùng cũng đến được nhà ông ngoại.
Thuở nhỏ, anh vô cùng nhạy cảm, thường xuyên phải đi giải vía[1]. Bởi vậy mỗi lần đến nhà ông ngoại, anh đều im lìm ngồi bên bàn thờ đọc sách chứ không nghịch ngợm tung giời như các anh chị em khác. Vì anh rất lặng lẽ, ngoan ngoãn, biết thờ biết thiêng nên được ông ngoại hết lòng thương yêu.
Sau này lớn lên, cứ khi nào muốn thay đổi tâm trạng là lại ngồi tàu hỏa đến Trung Lịch, chuyện trò với ông ngoại, ăn món ăn người Hẹ bà ngoại nấu, thả bước dạo quanh trung tâm thương mại gần trường đại học, lúc về Đài Bắc thì cầm theo hộp bánh bao. Chuyến du lịch ngắn ngủi ấy còn có tác dụng trị liệu tốt hơn hẳn ăn mười cái bánh đậu đỏ nóng hổi kêu xèo xèo.
Trần Hải Thiên đến đúng lúc ông ngoại anh bận việc. Thấy anh tới, ông mừng rỡ gọi anh qua: “Umi, mau qua đây ngồi.” Hồi còn nhỏ, anh được cả nhà gọi là Umi. Lúc đầu anh cứ tưởng người lớn đặt bừa một cái tên thế thôi, mãi cho đến khi anh lên trung học mới biết Umi là “Biển” trong tiếng Nhật.
Anh kéo chiếc ghế nhỏ qua ngồi cạnh ông. Trên bàn làm việc đầy những mảnh giấy màu vàng cắt thành hình ngọn lửa, anh cầm một mảnh nhìn chăm chú, đường cong của ngọn lửa mượt mà, phản chiếu lại ánh đèn tuýp trên trần nhà.
“Cái này là để dán cầu linh hồn”, ông ngoại vừa chẻ trúc vừa giảng giải anh hay: “Cái này để làm bàn mạt chược, giờ làm bàn mạt chược còn phải làm kèm thêm ba bạn chơi nữa cơ, đúng là…”
“Chỗ đó khó tìm bạn chơi mạt chược cùng lắm.” Anh kính cẩn để ngọn lửa lại vị trí cũ trên bàn, lẳng lặng ngồi bên cạnh nhìn ông ngoại mài nhẵn thanh trúc. Không gian tràn ngập tiếng mài trúc rào rạo êm dịu, nhạc Phật nho nhỏ vọng đến từ chiếc radio cũ kỹ, khiến cõi lòng thanh tịnh an yên.
“Ngoại ơi, con qua đây học ngoại làm này nhé?”
“Không được, ngoại sẽ bị mẹ con quở đấy.” Ông ngoại cười khà khà, “Bát tự con không hợp đâu.”
“Dạ.” Trần Hải Thiên biết dán vàng mã cũng như quay phim, đều là việc anh muốn làm nhưng lực bất tòng tâm.
“Rồi, con đừng ngồi đây nữa, không tốt đâu, đi dâng hương cho Quan Âm đi, xong thích thì ra phòng khách chơi với bà ngoại hay đi dạo đi, tối nhớ về ăn cơm nhé.” Trần Hải Thiên ngoan ngoãn nghe lời đi châm hương lễ bái, rồi ra phòng khách nói chuyện với bà ngoại một lúc xong mới ra ngoài dạo chơi.
Trung tâm thương mại quanh trường đại học vẫn thế chẳng đổi thay. Mùi nước dùng nồng nàn phả ra từ cửa hàng tiện lợi, đám người gõ bàn phím chơi game trong phòng game, những cô gái cười nói khoa tay ngoài cửa hàng thời trang, bức tranh ấy mãi mãi lặng im trong dòng chảy thời gian, làm ta hoài niệm nhớ nhung.
Anh đi từ đường Đại Mã vào một con ngõ nhỏ, cố tách mình khỏi đám đông. Lúc đi qua một căn nhà phủ dây leo xanh mướt, anh ngửi thấy hương cà phê, không khí mùi vị tươi mát sảng khoái. Anh đẩy cửa bước vào, ngỡ như mình đang vào trong tiểu thuyết của Charles Dickens[2]. Ánh đèn vàng dìu dịu đổ xuống các vật dụng trong nhà, phản chiếu thành những chiếc bóng khổng lồ. Nơi đây hệt như tòa thành cổ kính, tiếng bước chân kéo theo âm vang cọt kẹt của sàn gỗ. Anh rón rén lướt qua tầng một – nơi con chó chăn cừu Anh Quốc[3] đang nằm, lên tầng hai tìm vị trí sát cửa sổ. Không giống như dòng người ngược xuôi trong con ngõ nhỏ dưới lầu, tiếng bước chân thong dong trong tòa thành này mang đến cảm giác dễ chịu vô hạn.
Khi cà phê được bưng lên, anh chăm chú xem kỹ từng câu chữ treo tường. Đó là những dòng chữ giản đơn được in ra trên giấy kraft[4] rồi đóng khung gọn gàng. Từ lầu hai, anh có thể nhìn thấy lầu ba, từ lầu ba lại nhìn rõ lầu một, và từ đầu cầu thang lầu một sẽ nhìn thấy đôi hàng chữ ngăn ngắn.
Những tháng năm đẹp đẽ hoa lệ
Sinh ra từ cái ôm chầm tha thiết
Tôi chẳng biết mình
Nên thúc giục, đòi hỏi thế nào
Hỡi địa ngục, xin người hãy rơi tuyết cho thiên đường
Hỡi địa ngục, xin người hãy rơi tuyết cho thiên đường. Địa ngục, xin người hãy rơi tuyết cho thiên đường. Anh nhẩm