Mấy ngày tiếp theo, Trần Hải Thiên sống đúng kiểu vô công rồi nghề: sáng 7 giờ ra chợ mua đồ ăn, 11 rưỡi bắt đầu nấu nướng, tới 4 giờ chiều lượn qua trường học gần đó chạy thể dục, tới 7 giờ tối lại về nấu cơm.
Sau hai lần hẹn Trần Hải Thiên đi ăn, tận mắt thấy anh vẫn ổn thì Ngũ A Ca mới mặc kệ anh muốn làm gì thì làm. Bởi Ngũ A Ca luôn nghĩ con người sẽ dần trở nên chững chạc tốt đẹp hơn, sống ngày nào hay ngày đó, qua rồi là coi như xong. Còn A Minh thì gọi điện tới hỏi thăm về tình hình phát triển thực tế hiện giờ, bởi A Minh thấu hiểu những mâu thuẫn đấu tranh trong lòng anh, cũng hiểu được rằng những thứ anh nghe hay nhìn hằng ngày sẽ ảnh hưởng tới quyết định của anh.
Lương Mĩ Lị thì cảm thấy anh vui là được, đó là cuộc đời của anh cơ mà. Thực ra thì Lương Mĩ Lị cũng chẳng khác anh là mấy, khi anh đương rờ rẫm truy tìm những điều mình muốn làm sau này, thì Lương Mĩ Lị cũng đang dò dẫm tìm phương hướng bởi những điều cô khát khao trong tương lai.
Lúc anh cảm thấy mình đã nghỉ ngơi đủ rồi thì bắt đầu tính tìm việc ở quán cà phê. Ngũ A Ca tìm tạm cho anh công việc ngắn hạn một tháng trong quán bán đồ ăn và cà phê ngoài khu nhà Ngũ A Ca ở, thay thế cho nhân viên nghỉ dưỡng sức sau tai nạn xe.
Ngũ A Ca nói: “Lương một giờ thì thấp nhưng bù lại rất nhàn, toàn là khách ở quanh khu đó, cô chủ cũng tốt nữa. Chú chưa làm dịch vụ ngành hàng ăn bao giờ, qua đó thử coi, nếu không hợp thì cũng chỉ có tháng thôi chứ mấy.”
Trần Hải Thiên theo lời Ngũ A Ca đi phỏng vấn. Cô chủ chẳng nề hà việc anh không có kinh nghiệm trong ngành ăn uống, chỉ bảo: “Lúc muốn cầm đĩa đập xe máy của khách lắm rồi mà vẫn tươi cười niềm nở được là ok.” Nói đoạn, cô chủ nhìn mặt anh: “Mặt mũi xinh trai như này thể nào cũng lừa được nhiều chị em lắm đây.” Trần Hải Thiên nghe mà toát mồ hôi lạnh, mặc tạp dề màu nâu thêu gấu trúc bắt đầu kiếp bưng bê đầu tiên trong đời.
Vào tuần đầu tiên, anh chỉ biết rót nước, đưa thực đơn, bưng đồ ăn, rửa bát, có lúc còn ấm ớ không nói ra nổi lời chào đón quý khách. Cũng hên anh có khóe miệng củ ấu, mặt mày dửng dưng nom mà cứ như đang cười. Song lúc mấy em gái gào rú anh đẹp trai ơi là anh vẫn lúng túng vô cùng.
Sang tuần thứ hai, anh đã dần biết phụ mọi người chuẩn bị đồ ăn đơn giản, bày thức ăn được hâm nóng lên đĩa cơm, thêm hai cọng rau bóng mướt lên trên, pha nước hoa quả, làm đồ uống cơ bản. Hơn nữa, anh đã có thể vừa bưng đồ vừa nói chuyện đôi ba câu với khách, thậm chí còn biết mở lời khen mấy chị em diện đồ xinh xắn duyên dáng.
Đến tuần thứ ba, cô chủ dạy anh pha Espresso[1]. Anh đã dạo qua vô vàn quán cà phê ở Đài Bắc, người đứng pha cà phê trước quầy chỉ là hình ảnh quá đỗi bình thường trong bức tranh phố phường mà thôi. Thế nhưng, tới khi chính bản thân anh đứng ở vị trí đó, anh mới thật sự thấy mình trở thành một phần của bức tranh ấy, và cảm giác khi bị nhìn chằm chằm mới xa lạ xiết bao.
Xay hạt, đổ bột, chiết xuất. Anh vụng về bắt chước động tác của cô chủ, pha được một cốc Espresso đầu tiên trong đời mình.
Cô chủ cười nói: “Món mình làm ra thì phải tự nếm đi.”
Thế là anh uống một hơi hết sạch cốc chứa chất lỏng sóng sánh đen nâu dưới 30℃ đó, đầu óc bỗng như quả bóng căng ngập hương vị đắng chát cháy khét, ngỡ như cả thế giới đã cách biệt hoàn toàn với bản thân.
“Khó uống quá.” Anh quay đầu nói với cô chủ, sung sướng bật cười: “Dở thật ấy ạ.”
Trong khoảnh khắc ấy, anh đã “phải lòng” pha cà phê.
Cũng từ giây phút đó, công việc trong quán cà phê đã trở nên khác hoàn toàn, thời gian ngỡ như trôi nhanh gấp