Họ tiến đến tòa nhà cuối cùng trong sự cẩn trọng cao nhất, mắt quan sát kỹ càng nền đất để xem có dấu vết đào lấp mới nào hay không.
Họ nhìn chăm chú các thùng phuy nhựa xếp hàng dọc theotường như thể chúng có thể chứa bom bên trong.Cửa ra vào cũng bị khóa nhưng Assad dễ dàng dùng thanh sắt phá được.
Năng lực này sẽ sớm được thêm vào bản mô tả công việc của anh chàng.Họ nhận thấy một mùi hơi ngọt ở lối vào sảnh.
Nó giống như một sự pha trộn giữa mùi nước hoa của Lasse Jensen và mùi thịt thối.
Hoặc là mùi của chuồng nuôi động vật tại vườn bách thú vào một ngày ấm áp, khi cây cối nở hoa.Nằm trên sàn nhà là nhiều thùng chứa bằng thép không gỉ với chiều dài khác nhau.
Đa số chúng chưa được lắp thiết bị đo.
Những dãy kệ dài dằng dặc nằm dọc theo một bức tường cho thấy việc sản xuất đã được dự kiến ở một quy mô lớn.
Nhưng điều đó đã không xảy ra.Carl đặt ngón tay trên môi ra hiệu cho Assad đi theo anh tới cánh cửa tiếp theo.
Assad gật đầu và nắm thanh sắt chặt đến mức các đốt ngón tay trắng bệch ra.
Anh hơi khom xuống một chút như thể muốn biến mình trở thành một mục tiêu nhỏ hơn.
Có vẻ như anh làm điều đó theo phản xạ.Carl mở cửa.Trong phòng có ánh sáng.
Những bóng đèn với chụp kính cường lực chiếu sáng một hành lang.
Ở một phía có những cánh cửa dẫn vào một loạt các phòng làm việc không có cửa sổ, phía còn lại là một cánh cửa dẫn vào một hành lang khác.
Carl ra hiệu cho Assad kiểm tra các phòng làm việc, trong khi anh bắt đầu đi dọc theo hành lang dài và hẹp.Nó bẩn thỉu không thể tả, như thể chất thải lâu ngày hoặc thứ gì đó tương tự đã được bôi trét lên tường và sàn.
Thật khác xa so với tinh thần của người sáng lập, Henrikjensen, khi ông dựng nên cơ ngơi này.
Carl khó mà hình dung ra những kỹ sư mặc áo choàng trắng làm việc trong một khung cảnh như thế này.Ở cuối hành lang là một cánh cửa.
Carl thận trọng mở nó ra, tay nắm chặt con dao bấm trong túi.Sau khi bật đèn, anh trông thấy thứ có lẽ là một cái kho với những chiếc xe đẩy, các tấm thạch cao xếp thành nhiều chồng, và nhiều bình khí nén.
Theo bản năng, anh hít ngửi mùi của không khí.
Nó có mùi thuốc nổ, như thể ai đó vừa mới nổ súng trong này.- Chẳng có gì trong các phòng làm việc cả.
- Anh nghe thấy tiếng Assad nói khẽ sau lưng.Carl gật đầu.
Có vẻ như ở trong này cũng vậy.
Ngoại trừ ấn tượng kinh tởm giống như anh cảm thấy ở ngoài hành lang.Assad bước vào trong phòng và nhìn quanh.- Hắn ta cũng không ở đây, sếp.- Lúc này chúng ta không tìm hắn.
Assad nhíu mày hỏi lại:- Vậy ta tìm ai?- Suỵt.
- Carl gạt đi.
- Anh có nghe thấy không?- Gì cơ?- Nghe đi.
Nó là một tiếng huýt sáo rất nhẹ.- Tiếng huýt sáo?Carl giơ tay lên để ngăn không cho Assad nói tiếp, và nhắm mắt lại.
Có lẽ là tiếng hệ thống thông gió ởphía xa.
Cũng có thể là tiếng nước kêu trong các đường ống.- Tiếng gió đấy, sếp.
Giống như một cái gì đó bị thủng lỗ.- Đúng, nhưng nó phát ra từ đâu?Carl chậm rãi quay một vòng.
Không thể định vị nó được.
Căn phòng rộng không quá ba mét và dài không quá năm mét, nhưng âm thanh đó dường như phát ra từ mọi nơi, chẳng từ vị trí cụ thể nào cả.Anh quan sát thật kỹ căn phòng.
Phía bên trái của anh là bốn tấm thạch cao dựng cạnh nhau, có lẽ dày năm lớp.
Một tấm thạch cao được dựng tựa vào bức tường cuối phòng.
Bức tường bên phải để trống.Ngước lên trấn nhà, anh trông thấy bốn tấm ốp trần có đục những cái lỗ nhỏ.
Xuyên qua chúng là những bó dây điện và ống đồng chạy từ ngoài hành lang vào trước khi biến mất phía sau các tấm thạch cao.Assad cũng đã trông thấy chúng.- Chắc là có gì đó phía sau những tấm thạch cao.
- Anh chàng nói.Carl gật đầu.
Có thể là một bức tường bên ngoài, cũng có thể là một thứ gì khác.Họ bắt đầu chuyển từng tấm thạch cao sang bức tường để trống ở đối diện.
Tiếng rít kỳ lạ rõ dần.Cuối cùng, trước mặt hai người là một bức tường với một hộp đen nằm ở gần trẩn nhà, trên đó có một số công tắc, nút bấm và thiết bị đo đạc.
Ở một bên của hộp điều khiển này là một cửa vòm lõm vào trong tường gồm hai cánh, được bọc bởi các tấm kim loại.
Phía bên còn lại là hai ô cửa sổ tròn lớn viền thép, với lớp kính trắng đục.
Những sợi dây điện được dán vào kính bằng băng keo cùng với hai khối hình trụ mà Carl đoán là chất nổ.
Trước mỗi cửa sổ là một camera giám sát được đặt trên giá ba chân.
Không khó để đoán ra mục đích của các camera và các khối thuốc nổ.Trên sàn nhà, bên dưới các camera, là những viên bi nhỏ màu đen.
Carl nhặt vài viên lên và nhận ra chúng là những viên đạn chì.
Anh sờ mặt kính cửa sổ và lùi lại một bước.
Không nghi ngờ gì nữa, đạn đã được dùng để bắn vào kính.
Như vậy có thể trong kia có gì đó mà những kẻ sống ở đây không thể kiểm soát được.Carl áp tai vào tường.
Tiếng rít phát ra từ đâu đó bên trong.
Không phải từ cửa phòng, cũng không phải từ cửa sổ.
Chính là từ bên trong.
Nó phải là một âm thanh rất chói tai nên mới có thể vượt qua được lớp vật liệu kiên cố như thế này.- Chỉ còn bốn vạch thôi, sếp.Anh nhìn vào đồng hồ đo áp suất mà Assad đang chỉ.
Đúng là vậy thật.
Và bốn vạch tương đương với năm atmosphere.
Vậy là áp suất trong phòng đã bị tụt mất một atmosphere.- Assad, tôi nghĩ là Merete Lynggaard đang ở trong này.
Anh chàng trợ lý đứng im, mắt nhìn cánh cửa thép.- Anh nghĩ vậy sao? Carl gật đầu.- Áp suất đang giảm xuống.Assad nói đúng.
Sụ di chuyển của chiếc kim rõ ràng cho thấy điều đó.Carl ngước mắt nhìn những sợi dây điện.
Đầu sợi dây nối với hai khối thuốc nổ đang nằm dưới đất và đã được tuốt trần.
Có lẽ theo kế hoạch chúng sẽ được nối với một ắc quy hoặc một thiết bị kích nổ nào đó.
Phải chăng đây là điều mà bọn chúng sẽ làm vào ngày 15 tháng Năm, khi áp suất dự kiến hạ đột ngột xuống còn một atmosphere, theo những gì ghi ở phía sau tấm ảnh chụp Merete Lynggaard?Anh nhìn quanh, cố gắng tìm hiểu tình hình.
Các ống đồng dẫn thẳng vào trong phòng.
Có khoảng mười ống cả thảy, làm thế nào để biết được cái nào làm tăng áp suất và cái nào làm giảm? Nếu cắt một trong những cái ống, liệu có nguy cơ nào làm cho tình hình của người trong phòng xấu đi hay không? Với đường dây điện cũng vậy.Carl tiến đến chỗ cánh cửa và xem xét các hộp rơle cạnh đó.
Ở đây thì mọi thứ được ghi rõ ràng: Cửa trên mở.
Cửa trên đóng.
Cửa chốt gió ngoài mở.
Cửa chốt gió ngoài đóng.
Cửa chốt gió trong mở.
Cửa chốt gió trong đóng.Cả hai cửa của chốt gió đều đang đóng.
Chúng nên được giữ như vậy.- Theo anh thì cái này dùng để làm gì? - Assad hỏi.Anh chàng đang rất ngứa ngáy muốn bật một cái chiết áp nhỏ từ OFF sang ON.Carl thầm ước có Hardy ở đây.
Hardy là người rất giỏi xoay xở với các nút bấm và núm vặn.- Cái công tắc này được lắp sau tất cả những cái khác.
- Assad cho biết.
- Nếu không thì tại sao những cái khác được làm bằng chất liệu màu nâu? Và tại sao chỉ có cái này làm bằng nhựa? - Anh chỉ vào một cái hộp vuông làm bằng nhựa Bakelite.Đúng vậy.
Hai loại công tắc khác biệt rõ ràng được sản xuất cách nhau hàng chục năm.
Assad gật đầu.- Tôi nghĩ cái núm vặn đó hoặc là có thể làm ngừng quá trình, hoặc là chẳng có ý nghĩa gì cả.
Một cách nói rất mông lung và nước đôi.Carl hít một hơi.
Đã gần mười phút trôi qua từ khi anh gọi cho Căn cứ Hải quân ở Holmen, và họ cần một ít thời gian để đến nơi.
Nếu Merete Lynggaard đang ở trong phòng, họ sẽ phải quyết định ngay.- Bật nó đi.
- Anh nói với Assad theo linh tính.Ngay khi Assad làm theo, tiếng rít chói tai vang lên khắp phòng.
Carl thót tim.
Trong một thoáng anh đã nghĩ rằng họ vừa xả thêm áp suất.Rồi anh nhìn lên và trông thấy bốn cái loa âm trần hình vuông.
Nhờ vậy mà họ nghe được tiếng rít khủng khiếp từ trong phòng.- Có chuyện gì vậy? - Assad hét lên, tay bịt tai.- Tôi nghĩ anh vừa vặn to hệ thống liên lạc nội bộ.
- Carl hét lớn đáp lại và hất đầu về phía mấy cái loa trên trần.- Cô có ở trong đó không vậy, Merete? - Anh nói to ba, bốn lần, rồi chăm chú lắng nghe.Giờ thì anh có thể nhận ra tiếng rít là do không khí đi qua một chỗ hẹp.
Giống như âm thanh mà không khí tạo ra khi luồn qua những chiếc răng ngay trước khi người ta bắt đầu huýt gió.
Tiếng rít kéo dài liên tục.Carl lo ngại nhìn áp kế.
Giờ thì nó đã gần xuống mức bốn atmosphere rưỡi.
Áp suất đang giảm nhanh.Anh lại hét lên, lần này lớn hết mức có thể, Assad cũng bỏ tay ra khỏi tai và hét lên.
Âm thanh kết hợp của cả hai có thể dựng xác chết ngồi dậy, Carl tự nhủ, thầm mong mọi chuyện chưa đi xa đến mức ấy.Rồi anh nghe thấy một tiếng thịch phát ra từ cái hộp đen ở gần trấn nhà, và mọi thứ bỗng im bặt.Cái hộp đó kiểm soát áp suất trong phòng, Carl thầm nghĩ.
Anh đã tính đến chuyện chạy sang phòng khác để tìm một cái ghế hay thứ gì đó cho phép anh trèo lên mở hộp.Đúng lúc đó, họ nghe thấy những tiếng rên rỉ phát ra từ loa.
Nó giống như tiếng của một con thú bị mắc kẹt, hoặc của một người đang cực kỳ khổ sở.
Tiếng rên dài, ai oán.- Merete, có phải là cô không? - Carl hét lên.Họ đứng đó, chờ đợi.
Rồi họ nghe thấy một âm thanh mà họ diễn giải là chữ “phải”.Carl cảm thấy cổ họng khò khốc.
Merete Lynggaard đang ở bên trong.
Bị cầm tù suốt năm năm ròng, giữa cái nơi hoang vắng và tởm lợm này.
Giờ thì cô sắp chết, nhưng anh hoàn toàn không biết mình phải làm gì.- Chúng tôi có thể làm gì được đây, Merete? - Anh hỏi to.Ngay lúc đó, anh nghe thấy tiếng nổ vang lên từ tấm thạch cao dựa ở vách tường phía cuối phòng.
Anh biết ngay có kẻ đã nổ súng xuyên qua lớp thạch cao làm những viên chì bay khắp phòng.
Anh thấy đau nhói ở nhiều nơi trên cơ thể, trong khi dòng máu ấm bắt đầu chảy ra.
Anh đứng sững tại chỗ trong một khắc tưởng như dài dằng dặc.
Rồi anh nhảy ra sau cùng với Assad, anh chàng bị thương ở tay và có vẻ mặt phản ánh tình thế hiện tại.Trong lúc họ nằm dưới sàn, tấm thạch cao đổ về phía trước, để lộ người vừa nổ súng.
Không khó để nhận diện hắn.
Ngoài những đường nét trên gương mặt là kết quả của một cuộc sống khó nhọc và một tâm hồn vật vã qua nhiều năm tháng, Lasse Jensen trông giống hệt như thằng bé trong tấm ảnh chụp cùng Dennis Knudsen.Hắn bước ra khỏi nơi ẩn nấp, tay cấm khẩu súng hoa cải vẫn còn bốc khói, mắt quan sát những vết thương mà mình đã gây ra với một vẻ mặt lạnh lùng như không.- Làm thế nào các người tìm được tôi? - Hắn hỏi trong lúc gập đôi khẩu súng để nạp thêm đạn.
Hắn tiến đến chỗ họ.
Chắc chắn hắn sẽ bóp cò tiếp nếu muốn.- Anh vẫn có thể dừng chuyện này lại, Lasse.
- Carl lên tiếng và nhổm dậy để giải phóng Assad đang bị kẹt bên dưới.
- Nếu anh dừng lại ngay bây giờ, anh sẽ chỉ phải ngồi tù vài năm.
Bằng không, anh sẽ chịu án tử hình vì tội giết người.Gã đàn ông mỉm cười.
Không khó để hiểu được vì sao phụ nữ thích hắn.
Đúng là một con sói đội lốt cừu non.- Vậy thì có nhiều thứ ông không biết rồi.
- Hắn nói và chĩa súng vào thái dương Assad.Ờ, vậy hả, Carl nghĩ thầm trong lúc cảm thấy bàn tay của Assad lần mò trong túi áo của anh.- Tôi đã gọi chi viện rồi.
Đồng nghiệp của tôi sắp đến bất kỳ lúc nào.
Đưa khẩu súng cho tôi, Lasse, và mọi chuyện sẽ ổn.Lasse lắc đầu.
Hắn không tin điều đó.- Tôi sẽ giết cộng sự của ông nếu ông không trả lời.
Làm thế quái nào các người tìm được tôi? Với sức ép hiện tại, Lasse tỏ ra quá bình tĩnh.
Rõ ràng hắn đang điên tiết.- Nhờ Uffe.
- Carl đáp.- Uffe? - Lasse thay đổi sắc mặt.
Thông tin này không khớp với những gì mà hắn đang kiểm soát.
- Vớ vẩn! Uffe Lynggaard không biết gì hết.
Thậm chí nó còn không nói được.
Tôi đã theo dõi tin tức hàng ngày.
Nó không nói gì hết.
Ông nói láo.Carl cảm thấy bàn tay của Assad đã nắm được con dao bấm.Kệ đời mấy cái quy định sử dụng vu khí.
Anh chỉ hi vọng Assad có đủ thời gian để ra tay.
Một âm thanh vang lên từ hệ thống loa.
Merete đang muốn nói gì đó.- Uffe Lynggaard đã nhận ra anh trong một tấm ảnh.
- Carl nói.
- Một tấm ảnh chụp anh cùng với Dennis Knudsen hồi còn nhỏ.
Còn nhớ tấm ảnh đó chứ, Atomos?Cái tên quất vào Lasse Jensen như một ngọn roi.
Rõ ràng những năm tháng khốn khổ đó đang trỗi dậy trong hắn.Lasse nhăn mặt và gật đầu.- Vậy là ông cũng biết về chuyện đó.
Tôi đoán ông đã biết tất cả.
Vậy chắc ông cũng hiểu mình sắp sửa đi theo Merete.- Anh không còn thời gian nữa.
Lực lượng chỉ viện đang trên đường tới đây.
- Carl nói và nghiêng người về trước một chút để Assad có thể rút con dao ra và bất ngờ tấn công Lasse.
Vấn đề là liệu tên điên này có bóp cò kịp lúc hay không.
Nếu Lasse bắn cả hai nòng thì ở cự ly gần thế này, anh và Assad chết chắc.Một lần nữa Lasse mỉm cười.
Hắn đã trấn tĩnh lại.
Không gì làm lay chuyển hắn được, đó là đặc trưng của một kẻ tâm thần.- Ồ, tôi vẫn còn nhiều thời gian.
Ông nên tin vào điều đó.Cú giật trong túi áo của Carl và tiếng tách của lưỡi dao bật ra trùng với tiếng “phập” khi nó găm vào da thịt.
Carl nhìn thấy máu nơi chân Lasse đúng lúc Assad hất nòng súng lên cao bằng cánh tay trái bị thương của mình.
Tiếng nổ chát chúa vang lên sát bên tai Carl khi Lasse bóp cò theo phản xạ đã át đi mọi âm thanh khác.
Anh thấy Lasse im lặng ngã vật ra sau và Assad lao vào hắn, giơ dao lên định đâm.- Đừng! - Carl la lên, dù gần như không nghe được giọng nói của mình.Anh cố gắng đứng dậy, nhưng giờ thì anh đã cảm thấy toàn bộ mức độ trầm trọng của các vết thương trên người mình.
Anh nhìn xuống và thấy máu chảy thành dòng trên mặt sàn.
Anh bèn đưa tay ôm lấy đùi và ấn mạnh khi đứng dậy.Assad, người cũng đang bị thương, ngồi xuống ngực Lasse và kề dao vào cổ hấn.
Carl không nghe được, nhưng anh có thể thấy Assad quát tháo Lasse và bị hắn nhổ nước bọt vào mặt sau mỗi lời nói.Carl dần dần lấy lại khả năng nghe ở một bên tai.
Cái rơle trên đầu lại xả khí từ trong phòng ra.
Lần này tiếng rít vang lên ở tần số cao hơn lúc nãy.
Hay là thính giác đang đánh lừa anh nhỉ?- Chúng tao dừng cái này lại như thế nào? Làm sao để tắt thông gió? Nói mau!Assad quát một lần nữa, và lại nhận một bãi nước bọt vào mặt.
Nhưng bây giờ Carl mới nhận ra lưỡi dao được ấn mạnh hơn vào cổ họng Lasse sau mỗi cú nhổ.- Tao đã từng cắt cổ những gã còn tốt hơn mày vạn lần! - Assad gào lên và cứa một nhát đủ sâu để làmmột chút máu rỉ xuống cổ Lasse.- Cho dù có biết, tao cũng không nói.
- Hắn hét lên.Carl nhìn xuống vết thương dưới chân Lasse.
Lượng máu chảy không nhiều, không giống như khi động mạch đùi bị đứt.
Nhưng nó cũng khá nghiêm trọng.Anh ngước lên nhìn áp kế.
Áp suất đang giảm chậm nhưng đều đặn.
Lực lượng chỉ viện làm cái quái gì mà lâu thế nhỉ? Tay sĩ quan trực ban ở Holmen có gọi cho đồng nghiệp của anh hay không? Carl dựa người vào tường và rút di động ra.
Anh bấm số của trụ sở cảnh sát và được cho biết lực lượng hỗ trợ sẽ đến nơi trong vài phút.
Các đồng nghiệp và đội cứu thương sẽ có nhiều việc để làm.Carl không cảm thấy cú đánh nơi cánh tay mà chỉ nhận ra khi điện thoại rơi chạm sàn và tay anh thõng xuống.
Anh quay người và thấy bóng dáng cao gầy đứng phía sau giơ thanh sắt lên phang thẳng vào thái dương Assad.
Assad đổ gục không kịp kêu một tiếng.Sau đó, em trai của Lasse bước tới và đạp vào điện thoại của Carl cho đến khi nó vỡ nát.- Trời ơi, con có bị nặng không? - Một giọng nói vang lên sau lưng họ.Mụ già lăn xe đến chỗ họ, khuôn mặt hằn sâu dấu vết của những thống khổ đã trải qua trong đời.
Mụ không buồn đếm xỉa tới người đàn ông nằm bất tỉnh dưới sàn.
Tất cả những gì mụ thấy là chỗ máu trên ống quần của con trai mình.Lasse khó nhọc ngồi dậy và quắc mắt giận dữ nhìn Carl.- Không sao đâu mẹ.
- Hắn đáp.Nói rồi hắn rút khăn tay trong túi ra, cởi thắt lưng, và buộc cả hai thật chặt quanh đùi với sự trợ giúp của em trai.Mụ già lăn xe qua chỗ họ và ngước lên nhìn áp kế.- Tình hình thế nào rồi, con khốn? - Mụ quát vào ô cửa sổ.Carl nhìn Assad đang nằm thoi thóp dưới sàn.
Có lẽ Assad sẽ sống sót.
Anh nhìn quanh, hi vọng trông thấy con dao bấm.
Nó nằm bên dưới Assad chăng? Có thể anh sẽ trông thấy nó khi thằng quỷ cao gầy rời chỗ.Dường như Hans đã đọc được suy nghĩ của Carl.
Hắn quay về phía anh với một nét mặt giống như đứa trẻ phụng phịu khi bị người lớn lấy đồ của mình, hoặc khi sắp sửa bị ăn đòn.
Ánh mắt của Hans chất chứa tất cả sự tủi hờn của một tuổi thơ lớn lên trong sự cô đơn, giữa những lời chế giễu của đám bạn không hiểu được một đứa trẻ có thể suy nghĩ đơn giản và dễ bị tổn thương đến thế nào.
Hans nhấc thanh sắt lên và dứ dứ trước cổ Carl.- Em có nên kết liễu ông ta không? Anh Lasse? Em có thể làm được.- Con sẽ không làm gì cả.
- Mụ già vừa nói vừa lăn xe đến gần.- Ngồi xuống! - Lasse ra lệnh khi thấy Carl đứng thẳng người lại.
- Đi