Các thành viên trong đội tuyển Hàn Quốc đang tự hò reo phải chiến thắng, vậy mà một khắc khi nhìn thấy dàn tuyển thủ đội tuyển Trung Quốc chậm rãi bước vào hội trường thì bọn họ tức khắc trợn mắt há hốc mồm, ai nấy đều há miệng ngơ ngác không nói được lời nào.
Ngay cả Clarence, người tự nhận sẽ hạ gục Hề Hề từ trận chiến đầu tiên cũng sững sờ, thiếu chút nữa ngã từ trên ghế xuống đất.
Đội chủ nhà Nhật Bản vừa nhìn thấy một thân lễ phục và tư thái ung dung, cùng lễ nghi chuẩn mực của Hề Hề thì nghẹn lời, người cố vấn chuyên môn của họ đã suýt nữa lệ tuôn rơi đầy mặt.
Đây chính là những lễ nghi cổ xưa dường như đã thất truyền từ lâu!
Cập nhật sớm nhất tại Cô vợ hợp đồng bỏ trốn của tổng giám đốc.
Vậy mà hôm nay lại có thể lần nữa được xuất hiện tại đất nước xứ Phù Tang này, trời xanh quả thật là có mắt!
Hề Hề dẫn đầu đội tuyển Trung Quốc đi đến khu vực được chỉ định sẵn, để hai tay nhẹ nhàng đặt lên nhau và chắp lại tay áo, hơi hơi gật đầu hành lễ với mọi người, đôi mắt rũ nhẹ, thanh âm uyển chuyển mà rõ ràng cứng cáp: "Chư vị, hữu lễ!"
Vị cố vấn cao cấp của đội tuyển Nhật Bản ngồi bên kia lại sốt ruột vò đầu bứt tai, chỉ hận không thể lập tức xông qua hỏi cho rõ ràng người phụ nữ Trung Quốc này, rốt cuộc thì cô đã học được những lễ nghi cổ xưa này ở đâu?
Phải biết một điều rằng, từ thời Thịnh Đường trong khoảng những năm 713- 765 cho đến thời đại của triều Tống, văn minh của Trung Nguyên đại lục phát triển cực kỳ hưng thịnh. Một kết quả tất yếu là hai quốc gia láng giềng Nhật Bản và Hàn Quốc thậm chí đã kính ngưỡng ái mộ đến mức tranh nhau bắt chước những nét nghệ thuật nổi trội nhất lúc bấy giờ, dẫn đến tồn tại một nền văn hóa mô phỏng.
Trà đạo vốn dĩ bắt nguồn từ Trung Quốc, sau đó được truyền bá dần dần đến các quốc gia khác.
Bởi vậy nên trà đạo cổ xưa chân chính vốn là những lễ nghi điển phạm (*), ưu nhã và tôn quý nhất. Chỉ đáng tiếc, sau khi Tống triều bị quân Nguyên xâm lược thì những lễ nghi này cùng với phần lớn tinh hoa nghệ thuật của một thời cực thịnh đã dần dần bị mai một theo chiều dài lịch sử.
(*) Điển phạm: Xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ (kanōn) với nghĩa là cái nhánh cây được dùng làm thước đo, sau đó dần dần có nghĩa là tiêu chuẩn và mẫu mực. Về phương diện nghệ thuật và mỹ học, điển phạm phải có tính độc sáng, từ đó, trở thành một dấu mốc của nền văn học một nước hoặc một khu vực, có thể được dùng như một chuẩn mực để đánh giá các hiện tượng văn học khác xuất hiện trước hoặc sau nó.
Thế nên đến hiện tại, hầu như mọi người trên toàn thế giới chỉ biết và trà đạo của Nhật Bản, lại vô tình xem nhẹ cội nguồn chân chính của trà đạo Trung Quốc, trong khi đây mới chính là trà nghệ bác đại tinh thâm.
Mà hôm nay Hề Hề một thân trang phục nữ quan sứ giả trà nghệ đã tái hiện nguyên gốc một cách chân thật nhất những lễ nghi trà đạo của thời Thịnh Đường. Từng hành động, từng nụ cười, từng cử chỉ của cô đều tựa như từ một khuôn những gì được miêu tả trong các thư tịch điển phạm chuẩn mực nhất, khiến người yêu thích trà nghệ ở đây sao có thể không trở nên điên cuồng?
Kho tàng điển tịch, sách cổ mà Vân gia giữ gìn qua ngàn năm truyền thừa vẫn lưu giữ những kiến thức tinh thâm về các lễ nghi cung đình cổ xưa một cách vô cùng chi tiết đầy đủ. Nếu Vân lão phu nhân đã dụng tâm để Hề Hề đại diện Vân gia tham dự cuộc thi này, hiển nhiên đã chuẩn bị cho cô một cách kỹ lưỡng nhất.
Vân gia đây là muốn dùng cuộc thi đấu trà này để chứng minh cho toàn thế giới thấy rõ, như thế nào mới là bậc thầy của nghiên cứu văn học và văn hóa!
Ngồi trên hàng ghế ban giám khảo có tổng cộng năm người, bá tước Phillips đại diện cho Châu Âu, Doãn Tư Thần đại diện cho Châu Phi và vùng Trung Đông, nhà dân tộc học Matsumoto đại diện cho Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia Đông Nam Á, quý bà Elissa đại diện cho Châu Úc, và cuối cùng là nghiên cứu viên sử học Đông Phương Nhàn đại diện cho Trung Quốc.
À mà có người đang kháng nghị rằng một trong các vị ban giám khảo ở đây có giao tình cá nhân với tuyển thủ?
Rất tiếc kháng nghị bị vô hiệu! Nếu có bản lĩnh hãy đào ra cả trăm triệu dollar để tài trợ đi?
Không làm được? Vậy thì hãy ngậm miệng lại!
Hề Hề vừa xuất hiện tiến vào hội trường thì nghiên cứu viên sử học Đông Phương Nhàn bỗng nhiên đứng bật dậy, trông bà rất kích động, toàn thân run rẩy, đôi môi cũng run run: "Đây.. đây là!" Đôi mắt của bà ngân ngấn nước mắt, lời định nói lại nghẹn ngào không thốt ra được.
Doãn Tư Thần hiểu vì sao bà ấy lại xúc động như vậy, liền thấp giọng giải thích: "Xin giáo sư Đông Phương Nhàn đừng gấp gáp khẩn trương, cô ấy không phải học trò Vân Nặc của giáo sư, mà là em gái song sinh của Vân Nặc, tên Vân Hề."
Đông Phương Nhàn hít thật mạnh mấy hơi để tự trấn tĩnh cảm xúc, bà chậm rãi nhắm mắt lại để kiềm giữ nước mắt không trào ra, cuối cùng thở dài một hơi: "Đúng vậy, ta biết cô học trò ta yêu quý nhất đã qua đời năm năm rồi! Chỉ là đột nhiên nhìn thấy cô gái này và con bé giống nhau như đúc, nhất thời ta lại xúc động. Chẳng trách lần này ban tổ chức lại mời ta đến làm giám khảo, Doãn chủ tịch thật là đầy thâm ý!"
Doãn Tư Thần chỉ cười mà không đáp. Trận chiến này, anh nhất định phải hỗ trợ Hề Hề giành được chiến thắng, cho dù dùng thủ đoạn gì cũng không quản ngại!
Đông Phương Nhàn là nhà nghiên cứu học nổi tiếng về lịch sử và văn hóa của Trung Quốc, đồng thời là giáo sư ở đại học M. Thời Vân Nặc là sinh viên ở trường này thì cô là học trò của bà.
Năm đó Vân Nặc là tài nữ của tỉnh Y vang danh khắp nơi, nét kinh tài tuyệt diễm của cô đã khiến Đông Phương Nhàn ngưỡng mộ và yêu quý, bà bất chấp tuổi tác chênh lệch thế hệ mà kết giao bạn bè với cô. Nếu không phải vì sức khoẻ Vân Nặc quá yếu ớt thì bà chỉ muốn xây hẳn một căn phòng nghiên cứu sử học trong căn hộ của bà, để hai người họ có thể cùng nhau đàm đạo thảo luận về học thuật.
Đông Phương Nhàn năm nay đã gần bảy mươi, sau khi về hưu thì được đại học M mời quay trở lại thỉnh giảng để giúp đỡ cho công tác đào tạo giảng dạy và truyền bá lịch sử văn hóa. Cả đời của bà không kết hôn, chỉ có một niềm đam mê duy nhất là nghiên cứu sử học.
Cô học trò Vân Nặc chính là niềm tự hào kiêu hãnh nhất cuộc đời bà, bà đã dành toàn bộ tâm huyết của mình để dạy dỗ bao nhiêu tri thức cho cô. Vốn tưởng rằng bà đã tìm được người kế thừa y bát (*), chẳng ngờ cô học trò của bà lại có số mạng tuệ cực tất thương (*), sau hơn hai mươi năm mang theo cơ thể yếu ớt thì cuối cùng đã hương tiêu ngọc vẫn, rời khỏi trần thế khi chỉ mới hai mươi mốt tuổi.
(*) Y bát: Áo cà sa và cái bát của thầy tu (vốn chỉ áo cà sa và cái bát mà những nhà sư đạo Phật truyền lại cho môn đồ, sau này chỉ chung tư tưởng, học thuật, kỹ năng.. truyền lại cho đời sau).
(*) Tuệ cực tất thương: Lấy ý từ câu "Tình thâm bất thọ, tuệ cực tất thương", tạm dịch "Mối tình sâu đậm thường không kéo dài, người quá thông minh ắt sẽ bị tổn thương".
Việc Vân Nặc ra đi là một đả kích rất lớn đối với Đông Phương Nhàn, từ đó bà đã từ bỏ việc giảng dạy ở đại học M, một lòng lao đầu vào sự nghiệp nghiên cứu văn hóa lịch sử. Ngày hôm nay ở tại Nhật Bản, bà lại có thể gặp được người em gái sinh đôi của cô học trò yêu quý, hốc mắt bà đã tràn ngập nước mắt rưng rưng.
Đông Phương Nhàn là một người giám khảo công bằng, nhưng một khắc khi bà nhìn thấy gương mặt thanh thuần của Hề Hề thì trong lòng lại khó tránh khỏi dao động.
Doãn Tư Thần quả là gian manh, giỏi tính kế!
Ban giám khảo gồm năm người thì đã có ba người có thiện cảm đối với Hề Hề, muốn không thắng cũng khó. Đương nhiên Doãn Tư Thần luôn có lòng tin đối với Hề Hề và gia tộc Vân gia, bất quá cẩn thận thì không bao giờ thừa, không phải sao?
Ngoại trừ Đông Phương Nhàn ra, còn một người nữa kích động không kém, đó là nhà dân tộc học của Nhật Bản, ngài Matsumoto. Khác với Đông Phương Nhàn, thì Matsumoto không bị bối rối bởi gương mặt của Hề Hề, mà là vì phong thái lễ nghi chuẩn mực cùng với trang phục thuần túy của cô.
Matsumoto là người tinh thông về lịch sử văn hóa của cả hai nước Trung – Nhật, chỉ cần một cái liếc mắt thì ông đã nhận ra một thân phục trang này của Hề Hề sẽ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc khơi gợi cảm hứng cho sự nghiệp nghiên cứu văn hóa dân tộc của ông.
Đôi mắt màu hồng bảo thạch của bá tước Phillips lóa lên sự kinh diễm, đây là một phong cách khác biệt nữa mà bá tước được chiêm ngưỡng