Lục Nhi ôm thật chặt lấy đứa con gái mới vừa đầy một tuổi của nàng, nghe thân thể nho nhỏ của đứa bé đang cố hết sức hô hấp. Phần da dẻ mềm mại lộ ra bên ngoài nóng bỏng người, chẳng khác nào nhiệt độ khi đã bị phơi dưới mặt trời chói chang tận mấy canh giờ.
Nhưng Lục Nhi lại không hề cảm thấy con mình đang nóng bỏng tay, bởi vì chính nàng cũng đang phát sốt. Môi nàng khô nứt nẻ rách da, đôi mắt lại vằn vện những sợi tơ máu đến mức sắp không nhìn thấy tròng trắng đâu, giống như giữa hai hố máu lại điểm hai chấm đen, trông đáng sợ như là ác quỷ. Khóe miệng của nàng vẫn còn vương vết máu trào ra từ cơn ho lần trước, làn da lộ ra bên ngoài phủ kín những vết xanh đen, tựa như nấm mốc mục nát mốc meo.
Ngôi nhà xưa kia của nàng giờ chỉ còn lại là bốn bức tường đất xập xệ lụp xụp chống đỡ mái nhà cỏ lau đã sụp mất một nửa trên đỉnh đầu. Chồng nàng, cha mẹ chồng nàng, cha mẹ đẻ nàng, anh cả của nàng, cô em chồng, hai đứa bé con sinh đôi của nhà cô em chồng, tất cả đều đã chết, chết rồi lại không có được một đám tang đường hoàng, mấy người đàn ông dùng vải rách che lại miệng mũi quấn thi thể của bọn họ vào trong tấm chiếu cói, rồi ném vào một cái hố to bên ngoài làng thiêu cháy. Mùi cháy khét khi thịt thối bị thiêu chín rõ ràng buồn nôn như vậy, nhưng người trong thôn đều đã đói quá lâu, dẫu biết rằng bên trong luồng mùi kia có bệnh dịch kịch độc, cũng vẫn cứ không nhịn được tham lam nuốt nước bọt.
Có người nói, mới đầu có người nhiễm phải thứ bệnh thiên sát này chính là bởi vì nhiều năm nạn đói liên miên, đất đai rạn nứt khô cạn, trồng thứ gì cũng không sống được. Triều đình không ngừng nói sẽ phát lương thực cứu trợ thiên tai xuống, nhưng chẳng có lấy một đồng tiền thực sự rơi vào tay bọn họ. Có người đói gần chết, thế là mặc kệ chuột hay giòi bọ, cũng đều bắt hết về ăn. Bệnh dịch trên người những loài vật dơ bẩn đó đã đi vào thân thể người như vậy, rồi cấp tốc khuếch tán rộng ra ngoài.
Trong thôn có người chạy đi lánh nạn, cũng có người chạy nạn rồi lại trở về, chỉ là lúc đi năm người, trở về lại chỉ còn một. Người đó nói với người trong thôn rằng, không cần phải chạy trốn, căn bản không có chỗ nào để trốn cả. Bọn họ đi mà cả một nhà đều chết đói chết bệnh, vẫn chẳng hề tìm nổi một nơi có mưa có nước có đất đai màu mỡ. Huống hồ những tri phủ tri châu của các thành trấn lớn còn sợ bọn họ tràn vào trong thành làm lây lan dịch bệnh, cũng sợ những người dân quê chạy nạn trộm cướp đánh phá, vì vậy liền đóng chặt cổng thành, không chỉ không cho bọn họ tiến vào, mà còn sai quan binh dùng cung tên xua đuổi giết bọn họ. Đứa con trai mười ba tuổi của người nọ bị bắn ba mũi tên, một mũi tên cắm vào trong hốc mắt, mất mạng ngay tại chỗ.
Hắn nói rằng ngoài cửa thành xương chất đầy đồng, tanh tưởi xông trời, đến ngay cả con kền kền con quạ cũng chẳng buồn đến ăn.
Người khác hỏi hắn vậy phải làm thế nào, người kia bật cười ha hả, đá vào chân tường, quát, “Chờ chết đi!!! Chờ chết đi!!! Mạng người rẻ rúng!!! Không đáng tiền!!! Ông trời cũng mặc xác rồi!!!”
Lúc đó Lục Nhi cũng nhìn thấy dáng dấp rối bù điên điên khùng khùng của người kia, một mảng lớn phát ban màu đen mơ hồ lộ ra bên ngoài cổ áo người đó.
Khi đó trong thôn đã có người mắc bệnh, dù các thôn dân đã ngay lập tức khóa kín người mắc bệnh vào trong phòng của bọn họ, thì thứ bệnh đáng sợ này vẫn có thể tìm được cơ hội len lỏi qua các kẽ hở để chui vào thân thể người.
Lục Nhi cũng nghĩ tới chuyện chạy đi, song chồng nàng lại không muốn bỏ lại ba gian nhà tranh này, không muốn bỏ lại mảnh ruộng truyền xuống từ đời ông nội, nàng cũng không tin mọi chuyện sẽ tồi tệ đến mức đó. Sau đó đợi đến khi bọn họ muốn chạy, đã không còn kịp nữa rồi.
Một tháng, ngắn ngủi chỉ một tháng, nàng đã từ một người phụ nữ có gia đình trọn vẹn rơi xuống cảnh vợ góa con côi. Đầu tiên là cô em chồng, sau đó hai đứa con của cô, rồi tới mẹ chồng, bố chồng. Đồng thời thôn bên cạnh, nhà mẹ đẻ của nàng cũng gửi tới phong thư, nói rằng chính cha mẹ nàng cũng đã nhiễm bệnh, nhưng dặn dò nàng đừng đến dự đám tang, đã chôn cất. Nàng cũng không thể biết cái được gọi là “chôn cất” trông như thế nào, một đống xác chết mục rữa bị chất thành đống, chân chọc lên mặt, không nhận ra được ai lại ai, hoặc chôn vùi hoặc thiêu cháy, không có bất kỳ chuyện an tường gì để nói.
Cuối cùng là chồng nàng. Trong lòng nàng, chồng nàng lúc nào cũng đầu đội trời chân đạp đất như vậy, phảng phất như không có vấn đề gì không giải quyết được, không có chuyện gì phải sợ sệt. Nhưng mấy canh giờ cuối cùng, chồng nàng sợ run lẩy bẩy, hỏi nàng hết lần này tới lần khác rằng sau khi chết sẽ phải đi tới nơi nào, khóc lóc nói đi nói lại với nàng rằng hắn không muốn chết. Hắn sốt đến mức hoa mắt chóng mặt, mồm miệng không rõ, như đã biến trở về một đứa trẻ, phút cuối khi chết trong lòng nàng, còn vẫn đang hỏi nàng rằng mẹ ở đâu. ngôn tình tổng tài
Sau khi chồng nàng ra đi, thì nàng cũng bắt đầu phát sốt, nàng đã mơ hồ đoán được đại nạn không còn xa mình nữa. Phạm vi trăm dặm xung quanh làng, ruộng đất đều đã khô nứt nẻ, hoa quả dại trên núi cũng đã sớm bị người miền núi đói bụng vặt sạch sành sanh, đến ngay cả chim sẻ và quạ cũng đã bị ăn sạch. Nàng đã ba ngày rồi không được ăn gì, đến nước cũng chẳng được uống. Nước kéo lên khỏi giếng cũng đục ngầu như bùn, bốc ra mùi tanh tưởi của người chết. Nàng đã không còn nhớ được mùi nước giếng sạch là thế nào nữa, giữa cơn mê man, nàng nhớ lại thứ nước giếng mát lạnh ngọt ngào khi còn bé, uống vào môi răng đượm hương. Nhưng không hiểu sao, theo nàng dần lớn lên, nước giếng lại càng ngày càng vẩn đục, nàng nhớ rằng ban đầu mẹ nàng còn từng dùng đá và cát mịn để lọc qua nước một lần, rồi đun nước lên uống. Nhưng mấy năm gần đây, nước càng ngày càng đục càng ngày càng thối, lọc rồi vẫn cứ vàng khè, ngặt nỗi mọi người cũng đã dần quen với mùi tanh đắng ê răng này, cho nên cũng không để ý tới xem có sạch hay không nữa.
Nhưng càng uống thứ nước bẩn đó, sức khỏe của mọi người lại càng kém. Không một ai biết đầu nguồn của bệnh dịch đến cùng là chuột, là nước, hay là đói bụng.
Không có nàng, con gái nàng cũng sẽ không sống nổi, thay vì để lại mình con bé giãy giụa giữa trần thế khổ cực này, chi bằng hai mẹ con cùng đi với nhau. Nàng ôm thật chặt lấy con mình, từ từ cảm thấy đầu váng mắt hoa, ngũ tạng như thiêu đốt. Căn bệnh kia nhanh chóng ăn mòn thần trí của nàng, trong cơn hoảng hốt, thế gian trong mắt nàng bắt đầu vặn vẹo biến hình, bất kể là trong không khí hay là trên vách tường, đâu đâu cũng phủ kín đặc một lớp nấm mốc thật dày, vô số những con sâu thịt mềm nhũn to chừng cánh tay và chân người quấn kết vào nhau, đâu đâu cũng có mùi vị hủ bại, đến ngay cả đứa bé trong lòng nàng cũng biến thành một thứ xấu xí mềm oặt mọc đầy xúc tu. Mà bàn tay cũng nàng cũng biến dạng, bao trùm một lớp niêm mạc nửa trong suốt, năm ngón tay đều dính liền vào nhau.
Ảo giác này lúc ẩn lúc hiện, chớp mạnh mắt một cái là tất cả lại biến trở về dáng vẻ bình thường. Cho nên nàng càng sợ hãi hơn, không biết sau khi chết mình rốt cuộc sẽ phải đi đến nơi nào. Nàng tự vấn cả đời không làm việc gì thương thiên hại lý, nhưng cũng không phải không hề oán hận ai bao giờ, dù sao con người ta sống cả đời, ai lại không có vài kẻ mà mình chán ghét? Huống hồ nàng cũng chưa bao giờ thành kính đến miếu đến quan vái lạy, có khi nào ông trời cũng sẽ cảm thấy nàng chưa đủ tốt, kiếp sau chỉ xứng đầu thai vào bên trong tam ác đạo hay không? Liệu có khi nào nàng sẽ phải biến thành một con lợn, sinh ra đã chờ để bị người giết? Hoặc là phải biến thành con trâu, một đời dốc hết tâm huyết cho đến khi chết đi vì kiệt sức? Hay lẽ nào sẽ phải đầu thai thành ác quỷ, chết không được sống không xong trong vạc dầu núi đao?
Giữa cơn sợ hãi ập tới từ hư không bốn phương tám hướng, nàng dần dà chìm sâu vào cảnh trong mộng.
Trong mộng, nhà của nàng lại biến trở về cảnh tượng như trước đây, mái nhà lá mới vừa trải, vách tường vừa mới quét vôi, sáng sủa sạch sẽ, trên bếp lửa cũng đun một ấm trà nóng.
Nàng cúi đầu xuống nhìn, con gái của nàng đang yên lành ngủ trong lồng ngực mình. Thân thể của nàng cũng hết sức khoan khoái mềm mại, cảm giác đói bụng như ruồi bâu lấy mật cũng đã hoàn toàn biến mất. Nàng thậm chí còn nghe thấy tiếng huýt sáo quen thuộc từ đằng xa vọng lại, trước kia mỗi khi chồng nàng trở về từ ngoài đồng, chàng sẽ luôn thích huýt sáo làn điệu dân ca đó, chẳng bao lâu đã có thể nghe thấy tiếng cổng tre bị đẩy ra.
Trong lòng nàng tràn trề hi vọng và ấm áp vui mừng như điên, nàng kéo cửa phòng ra.
Ngoài cửa là một biển hoa vô biên vô hạn. Đó là một loại hoa nàng chưa bao giờ thấy, cánh hoa cong cong, thê diễm như máu. Bầu trời thì lại mang sắc vàng óng thoảng ra mùi vị của hồi ức, ráng chiều mờ ảo tựa một thớ lụa mỏng.
Cả đời này, nàng chưa bao giờ gặp được cảnh tượng nào mỹ lệ như vậy, nàng mở to cặp mắt chân chất mà ngây thơ, không biết nên làm gì.
Bỗng nhiên, một cảm giác dịu dàng kỳ diệu lặng yên tràn ra bên trong lồng ngực của nàng, phảng phất như cảm giác an toàn hạnh phúc khi quây quần bên gối mẹ thuở còn thơ.
Không phải từ một chỗ cụ thể nào đó, phảng phất như trong không khí bỗng hiện lên một bóng người dong dỏng màu đỏ. Mặc dù vẫn còn cách xa cả một đoạn, mà chẳng hiểu tại sao bóng người đỏ ấy lại như thể đang lặng lẽ gọi vời nàng, khiến cho nội tâm của nàng đầy ắp những ngóng trông. Nàng bước nhanh về phía trước, chạy về phía bóng người màu đỏ như thể cửu biệt trùng phùng, rồi lại không thể không dừng bước khi nhìn thấy diện mạo của bóng người áo đỏ kia.
Đó là một người con trai thoạt nhìn có vẻ rất trẻ tuổi, rồi lại cũng vô cùng cổ xưa, mái tóc dài như đêm đen, khuôn mặt như ngọc lạnh, một đôi mắt phượng vừa có tình vừa tựa như vô tình khiến người ta hồn xiêu phách lạc. Trên người y hình như còn tỏa ra quang minh nhàn nhạt, biến cả khung cảnh mỹ lệ khiến người ta phải ngưng thở chung quanh thành phông nền cho mình. Y thoạt nhìn giống như một nhân loại, nhưng luồng khí chất thần thánh và cao quý khó có thể nhận dạng lại đang lan tỏa quanh người y, khiến cho lòng người nảy sinh kính nể không dám lỗ mãng. Mà bên ngoài vẻ thần thánh này, còn chứa đựng cả tà khí lôi kéo con người ta sa đọa, không giống với các vị thần linh không nhiễm bụi trần trong miếu đường.
Lục Nhi rưng rưng nước mắt, chẳng hiểu sao lại