Vọng gác đêm trăng nhớ giang san
Nhớ nhà đau đáu nỗi niềm mang
Nước non bờ cõi vào tay giặc
Hận lũ sói lang kiếm sẵn sàng
Cửa nhà yên ấm bỗng tan hoang
Chuồng trại cà dưa chốc điêu tàn
Thương dân sống cảnh lầm than lắm
Quặn lòng đau nhói thấu tâm can
Nằm phía Tây cách kinh thành hơn hai trăm dặm, Quan Âm tự tỉnh Sơn Tây đứng trên triền núi Lã Lương cao sừng sững, trơ gan cùng tuế nguyệt.
Mé tả là một ngọn thác hiểm trở, dòng nước hung dữ từ độ cao hơn chục trượng ầm ầm đổ xuống, bọt tung trắng xóa. Mé hữu trái ngược, lại là cánh rừng thông xanh ngắt, lác đác sắc xám của đá núi bốn phía xung quanh. Trong không khí đẫm hơi nước mát mẻ, khu rừng như khoác lên một màn sương mờ ảo, có phần yên tĩnh hiền hòa. Một động một tĩnh không hề đối chọi, lạ thay lại kết hợp hài hòa tạo nên kỳ cảnh nhân gian hiếm có.
Không còn ai biết chính xác Quan Âm tự được dựng từ bao giờ, màu thời gian huyền ảo ấy càng phủ lên ngôi chùa này một sắc thái cổ kính và linh thiêng huyền bí, góp phần đưa nó trở thành chốn ưa thích không chỉ của khách hành hương mà cả giới tao nhân mặc khách suốt một dải trăm dặm Sơn Tây.
Có điều hôm nay, Quan Âm tự thường ngày tấp nập lại vắng bóng du khách. Không những thế, chu vi năm dặm quanh đây càng không một bóng người, ngoại trừ từng tốp lính tuần phòng qua lại. Vài vị khách phương xa sau cơn hốt hoảng vì bị xua đuổi, hỏi ra mới hay từ mười ngày trước hoàng đế Thuận Trị băng hà khiến thiên hạ rúng động. Cho nên từ kinh thành xa xôi, xa giá thái hoàng thái hậu Hiếu Trang cùng tân tiểu hoàng đế Khang Hi ngày đêm vội vã khởi hành đến tận Quan Âm tự nơi này, lo chuyện hậu sự cho tiên đế Thuận Trị. Đồng thời truy tôn thụy hiệu tiên hoàng thành: “Thể Thiên Long Vận Đỉnh Thống Kiến Cực Anh Duệ Khâm Văn Hiến Vũ Đại Đức Hoằng Cung Chí Nhân Sơ Hiếu Chương Hoàng Đế.”
Người ta thường nói: “Hoàng đế động, thiên hạ rùng rùng theo sau.” Huống hồ giờ đang là thời điểm chuyển giao quyền lực vô cùng nhạy cảm. Cũng dễ hiểu vì sao ngoài quân địa phương Sơn Tây phong tỏa năm dặm chung quanh, mặt chính diện Quan Âm tự còn cờ xí rợp trời, lớp lớp nhân mã khôi giáp vũ khí sáng loáng, đội ngũ chỉnh tề, canh gác cẩn mật. Chỉ cần kẻ am hiểu tình hình kinh thành có mặt nơi đây ắt nhận ra cờ hiệu kia đại diện cho đoàn quân Chính Bạch kỳ. Ngay cả rừng thông bên mé hữu cũng âm u khác hẳn thường ngày, lộ ra một sát khí chết người. Với địa hình hiểm trở cùng bố phòng nghiêm mật như vậy, kẻ nào có ý định hành thích tân hoàng đế hẳn là điều hết sức ngu xuẩn.
Bất quá trong thiên hạ, thời nào cũng vậy, đâu thiếu kẻ anh hùng hào kiệt, gan lớn trùm đời.
Chính điện Quan Âm tự hương trầm bảng lảng. Lúc bấy giờ một đứa bé trai độ chừng tám tuổi đang quỳ dưới một tấm bài vị, đứa bé mặc trường bào trắng, khoác mã quái cũng màu trắng, cổ trường bào tròn, ống tay hẹp hình vòng cung, tà áo xẻ hai bên, lưng mang đai đen. Quanh trán đứa bé quấn khăn tang, trán chạm nền gạch bóng nhẵn, nước mắt rơi trên nền gạch đọng thành vũng.
Một bà lão khoảng năm mươi mấy sáu mươi tuổi đứng bên phải đứa bé trai này, bà lão cũng vận kì trang trắng muốt, cổ áo hình tròn, ống tay áo hình móng ngựa, hai bên trái phải xẻ tà. Đầu bà đội điền tử, hai bên điền tử không gắn dây rũ, giữa đỉnh đính trâm phượng được tạc bằng bạch ngọc, ngoài ra không khảm nạm thêm châu báu trên điền tử.
Bà lão sở hữu một cặp mày ngài, mũi cao, miệng chữ tứ, góc hàm thon gọn hai bên, với năm bộ phận thiên trung, thiên đình, tư không, trung chính, ấn đường đều cân đối nhau. Bà lão này chính là thái hoàng thái hậu Hiếu Trang, lúc bấy giờ chẳng khác nào Khang Hi, cũng đang dung nhan sầu lụy, đau buồn ủ rũ, lã chã lệ châu.
Trong chính điện ngoài Hiếu Trang và Khang Hi còn có hai người đàn ông đang quỳ cúi đầu, tuổi tác họ không quá hăm lăm tuổi, họ quỳ sau Hiếu Trang và Khang Hi. Người đàn ông quỳ bên phải dáng dấp cao to, làn da rám nắng, trên khuôn mặt vuông vức là vầng trán góc cạnh, giữa nhật nguyệt giác có xương lộ lên, đôi mắt khổng