Tế Độ thấy con huyết mã của chàng đã chở Lâm Tố Đình và Tần Thiên Nhân đi khỏi Huyết Sơn lâu rồi mà nữ thần y vẫn không hạ dao.
Nàng đứng hướng lưng về chàng. Tế Độ không dám tiến đến phía sau nàng, cũng không dám dụng đến võ công đánh rơi con dao trong tay nàng. Chàng biết khinh công của mình rất êm và chưởng pháp cũng rất nhanh, nhưng chàng đứng cách nàng khá xa và mũi dao kề sát cổ nàng không một khe hở, chàng không dám đánh cược xem tay của ai nhanh hơn được. Phải làm thế nào tiếp cận nàng bây giờ?
Hay là chàng nhắc với nàng chuyện cũ? Năm đó, trên con đường vùng biên ải chàng như một chấm nhỏ trong tuyết trời trắng xóa, chàng đã ngã xuống, nàng mang chàng về căn nhà trên Thiên Sơn. Nàng như chú chim, yên tĩnh đậu nhẹ bên giường chàng, dường như nàng ngồi bên là để chờ mắt chàng mở ra rồi nhìn sang, bởi mỗi khi chàng nhìn nàng, nàng đều lặng lẽ nhìn lại chàng. Cái nhìn lướt từ đôi mắt đẹp như mặt nước hồ phẳng lặng, không gợn thoáng ưu tư nào, kỳ lạ làm sao làm lòng chàng yên ả. Có lần chàng tưởng hai người là đôi vợ chồng cưới nhau đã lâu, đã chung sống với nhau được mười năm rồi.
Hoặc nói hằng năm chàng đều về căn nhà trên Thiên Sơn, chàng mở cửa vào nhà hy vọng được gặp nàng, bứt rứt chờ đợi, hết đi ra lại vào, cố lắng tai nghe ngóng nhưng trong nhà và ngoài sân vẫn cứ im ỉm. Trước khi rời khỏi, chàng đều sờ tay lên cánh cửa, bề mặt gỗ thô nhám, nhủ thầm: “Hãy cứ ở yên đấy, sự khao khát của ta.” Rồi quay về kinh thành trở lại với công việc bề bộn của mình.
Có lúc công việc bận rộn ngồi trước đống sớ tâu mãi làm đầu óc chàng quay cuồng, nhưng ngắm bức tranh của nàng do Trương Dũng nhặt được ở trong rừng Sơn Tây một cái là lòng chàng bình yên lại.
Nàng không phải hoa khôi lộng lẫy, rực rỡ gây phản ứng rạo rực, kích thích giác quan mà là một thiếu nữ bẩm sinh thiên phú từ vóc dáng, cử chỉ, giọng nói đến nụ cười dễ gây ấn tượng nhẹ nhàng, êm đềm, tin cẩn đi vào lòng người.
Ở kinh thành có hàng loạt những cô gái ve vãn chàng như loài công khoe ra cái đuôi rực rỡ màu sắc cuốn hút nhưng chàng đã không còn như xưa nữa. Chàng không còn cảm thấy vui vẻ khi lũ người ấy xu nịnh, không còn hứng thú với họ, mà chỉ thấy có quá nhiều mặt nạ, quá nhiều thị phi, sự giả tạo có mặt ở khắp nơi mà chẳng có điều gì chân thật. Chàng quá mệt mỏi với hàng loạt khuôn mặt trắng trẻo hồng tươi, những toan tính vây lấy chàng, cơ hồ màn sương dày đặc mà đến mặt trời giữa khi chính Ngọ chẳng thể nào xua tan đi được.
Không được, nói những lời như vậy không ổn. Lúc nãy nàng đã nhìn chàng với ánh mắt xa lạ, dửng dưng, như không hề nhớ hay muốn nhớ chuyện cũ. Phải nói thế nào nhỉ? Để nàng bận tâm nghĩ cách đáp trả để chàng có thể tiếp cận nàng giành lấy con dao? Tế Độ tiếp tục suy nghĩ.
Trong lúc bức bách, ánh mắt chàng tình cờ nhìn sang Khẩu Tâm. Có rồi, cuối cùng, Tế Độ cũng nghĩ ra điều để nói với nữ thần y khiến nàng phải phân tâm tìm cách đáp lời chàng.
- Tại sao học sinh Hắc Viện không chịu vào quốc tử giám? - Tế Độ nói - Vào đó rồi các mức tổn lệ phí đều do triều đình tài trợ cho họ, khi học xong tiền đồ rực rỡ, hà cớ lại tình nguyện đi Đồng Sơn chịu đói chịu rét mà không chịu đi Bắc Kinh?
Trong lòng nữ thần y bấy giờ không nghĩ được chuyện gì khác ngoài Tần Thiên Nhân. Nàng vừa ngưỡng mộ Lâm Tố Đình vừa chua xót cho mình, nàng và Tần Thiên Nhân chỉ vừa bái đường còn chưa động phòng, mà bây giờ hai người vĩnh viễn mất nhau rồi.
Lệ trào lên trong mắt nữ thần y, sắp rơi ra, bỗng nàng nghe nhắc đến các cống sinh, làm nàng nghĩ đến Lữ Nghị Trung và Lữ gia một nhà trăm mấy mạng, cơn phẫn nộ từ đáy lòng nàng nổi lên.
Nữ thần y không nhìn xuống núi nữa, ngẩng đầu nhìn trời cho nước mắt không chảy xuống, nói:
- Tại sao họ không chịu vào quốc tử giám ư, chẳng lẽ tướng quân ngài thật tình không biết?
Tế Độ nói:
- Không lẽ chỉ vì Chu và Kỳ khác nhau nên họ không chịu theo phò hoàng đế? Chỉ vì Chu và Kỳ mà họ không chịu vì bá tánh trợ giúp thoàng thượng trở thành một vị hoàng đế tốt? Nếu thật vậy bản tướng thấy họ chỉ là những người cố chấp, thiển cận, không có tầm nhìn rộng.
Nữ thần y quay người lại nhìn Tế Độ, mắt nàng mở rất to.
Tế Độ tiếp:
- Các học sinh trong danh sách tiến kinh đều là những người tài giỏi, tiền đồ của họ chính là ở quan trường. Bản tướng hiểu các người sợ phá vỡ giới hạn giữa Chu và Kỳ, nhưng nếu các người cứ nghiêm giữ giới hạn này, đối với thế đạo nhân sinh có ích lợi gì? Từ khi người Mãn chúng tôi nhập quan, số người không nhiều, rất cần những thành phần người Hán có học giúp sức, khiến cho đất nước này ngày càng thịnh trị. Nếu như những người Hán có tài cứ mai một, nàng nghĩ mà xem, sự đau khổ của bá tánh một phần cũng do các người gây ra.
Tế Độ nói đến đây ngừng lại, thấy môi nữ thần y mở ra định đáp trả lời chàng, nói thêm:
- Học sinh trong Hắc Viện có biết bao nhiêu người, có thể giúp được biết bao nhiêu việc. Căn bản của trị học dùng để làm gì? Chính là để cứu lê dân bá tánh. Mà muốn cứu lê dân bá tánh thì chính là ở quan trường, không phải ở trường học. Hắc Viện của nàng chỉ yêu cầu các học sinh học, không cho họ làm việc gì dính dáng tới quan trường. Nhưng nếu không có người tài đi làm quan cho triều đình thì những kẻ làm quan chỉ là những bọn quan chiếu. Bang hội các người đi giết bọn đó, hôm nay giết được một quan chiếu, ngày mai triều đình lại bổ nhậm một tên khác, hèn gì sự đau khổ của lê dân bá tánh mới vô bờ bến.
Tế Độ nói xong tiến lên một bước, tiếp tục nói:
- Từ khi Hắc Viện khai giảng đến nay đã hơn ba mươi năm, học sinh đi ra từ Hắc Viện có đến hơn ba chục ngàn người, nhưng chỉ vì sự phân biệt triều đại mà không ai chịu đi làm quan, ngay cả cái quyền lực nho nhỏ ở Hàng Châu cũng chẳng có ai nắm được, thì còn nói gì đến tiêu trừ thác lưu, quan phục Hán nghiệp, còn nói gì đến hoàng thiên hậu thổ, lấy lại sơn hà?
Nữ thần y nói:
- Từ khi người Mãn nhập quan đến nay cũng đã hơn ba mươi năm, nói một cách khách quan, hai triều Hoàng Thái Cực và Thuận Trị có thể gọi là thịnh thế. Hai người này đã trừng trị tham quan, Nam tuần trị sông, giảm miễn thuế má, thống trị quyền địa, ở biên cương thi hành Cải Thể Quy Lưu. Trong binh pháp trị quốc của người Hán chúng tôi gọi đó là “đức chánh.” Quốc lực của Thanh triều cũng có thể nói là ngày càng hùng cường, lê dân bá tánh có thể miễn cưỡng nói là được an cư lạc nghiệp. Nhưng tướng quân ngài có biết không? Chính sách đàn áp của nhà Thanh cũng đã đem lại tệ hại to lớn cho nhân dân các tộc. Các người sợ bá tánh làm phản, nhập quan liền thi hành bạo chánh, cấm kết Minh Xả, chấp hành Văn Tự Ngục, đả kích sĩ khí của văn sĩ, lệ hành thế phát, trong toàn quốc thực hành hải cấm. Không riêng gì Hắc Viện mà các trường học khác có bao nhiêu nhân sĩ trí thức đều bị triều đình bắt ép đi vào quốc tử giám, họ phản ứng, liền bị triều đình giết chết.
Tế Độ bước thêm một bước nữa, im lặng.
Nữ thần y tiếp:
- Ở Hồi Cương tình hình còn tệ hơn thế nữa. Triều đình của ngài đã dùng chính sách chia rẽ Hồi tộc, lợi dụng tôn giáo phân hóa người dân ở Hồi Cương, để cho nội bộ thất tộc xảy ra mâu thuẫn khiến họ tàn sát lẫn nhau, như vậy triều đình của ngài có thể đường đường chính chính công khai đem binh đến trấn áp, dẹp loạn. Tiện đó cũng có thể chiếm lấy đất đai, tài sản, của cải dân Hồi, bắt đàn bà con gái đi làm kỹ nữ, nam nhân ép thành khổ sai, giết người lớn tuổi và trẻ em, coi mạng người như rơm rác. Chỗ làm cho người ta khó chịu nhất đó chính là khiêu khích các dân tộc đối chọi lẫn nhau, dân Hồi, Mông, Hán, đánh nhau, thù sát lẫn nhau, vì có như thế triều đình của ngài không cần tốn một binh lính nào cũng có thể đạt tới mục đích. Cho nên dân nữ xin thưa với ngài, cái gọi là giới hạn giữa Chu và Kỳ, giữa người Mãn và người Hán, chỉ là một trong số các lý do học sinh Hắc Viện không chịu vào quốc tử giám.
Tế Độ đứng lại, nhủ bụng chàng không thể tiếp tục cất bước lộ liễu như vậy.
Nữ thần y tiếp:
- Định Viễn đại tướng quân, ngài có biết sách học ở Hắc Viện khác với quốc tử giám như thế nào không? Ở Hắc Viện chúng tôi học đạo lý “trị binh,” quốc tử giám của ngài dạy đạo lý “trung quân.” Người xưa có câu đạo bất đồng bất tương vi nên các học sinh Hắc Viện không chịu đi.
Tế Độ nghe nữ thần y kể một lô một lốc các tội trạng của triều đình nhà Thanh, chưa biết đáp trả ra sao, giờ nghe nàng bảo đạo bất đồng bất tương vi, hai mắt chàng sáng lên, nói:
- Ồ, nhưng người Hán các người cũng có câu trị binh lập quốc, quốc tức hữu quân, như vậy không lẽ đạo lý trung quân không đúng hay sao?
Nữ thần y lắc đầu:
- Trước là trị quốc, sau đó trung quân, có như vậy mới là hiền thần. Còn nếu trung quân trước trị quốc thì đó chỉ là nịnh thần mà thôi. Vì quốc tử giám của ngài đào tạo những nịnh thần bất tài nên dân chúng gia nhập Thiên Địa hội. Quân hữu đạo thần tử vô hận, còn quân vô đạo, thần tử đương nhiên phải gióng trống gióng cồng mà thôi.
Tế Độ vừa bước đi vừa nói:
- Hoàng thượng tiền triều tuổi còn rất nhỏ, mà đã thông thuộc Đế Phàm, bản tướng nghĩ sau này ngài ấy sẽ trở thành một vị vua hữu đạo.
- Ha ha! - Nữ thần y cười lớn.
Tế Độ đứng sững, không phải chàng lại sợ mình cất bước quá lộ liễu nên dừng chân lại, mà đây là lần đầu chàng trông thấy một cô gái đứng trước mặt chàng cười ngạo mạng như thế này, hơn nữa, một cô gái không hề biết một chiêu thức võ công nào.
Chàng cứ tưởng nàng giống một viên pha lê, ngây thơ ít trải đời, nhưng những lời vừa rồi của nàng, chàng cảm thấy ở nàng tiềm ẩn sự hiểu biết, điểm này càng làm nàng thêm quyến rũ, hấp dẫn.
Tế Độ hỏi:
- Tại sao nàng cười?
Trương Dũng, Nhạc Thăng Long, Triệu Phật Tiêu, Khẩu Tâm, Ngụy Tượng Xu, Chu Xương Tô và chúng quân há hốc miệng trước giọng nói thản nhiên của kỳ chủ. Tiếng cười khi quân vừa rồi của nữ thần y, ít nhất cũng lãnh bản án ngũ mã phanh thây. Thế mà chủ soái họ lại