Long Sơn huyện.
Có thể mọi người còn chưa quen với tên gọi này, nhưng nếu nói đến Vũng Tàu, có lẽ nhiều người rất quen. Đó là một thành phố được xây dựng trên địa giới 3 làng Tam Thắng thời Nguyễn. Di tích pháo đài Phước Thắng vẫn còn, chính là Bạch Dinh ngày nay. Năm 1898, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã cho xây dựng Bạch Dinh (Villa Blanche) trên nền pháo đài Phước Thắng từng khai hỏa bắn vào tàu chiến Pháp 50 năm trước đó. Tại đây hiện vẫn còn lưu giữ 19 khẩu thần công của pháo đài Phước Thắng xưa.
Năm 1876, Vũng Tàu thuộc tiểu khu Bà Rịa, nằm trong khu vực (circonscription) Sài Gòn, theo nghị định phân chia hành chính của chính quyền Pháp thuộc. Ngày 1 tháng 5 năm 1895, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định tách thị xã Cap Saint Jacques ra khỏi tiểu khu Bà Rịa để lập thành phố tự trị (commune autonome) Cap Saint Jacques. Đến ngày 20 tháng 1 năm 1898, Cap Saint Jacques hợp nhất trở lại với tiểu khu Bà Rịa thành khu Cap Saint Jacques cho đến năm 1899 lại tách ra thành hai đơn vị hành chính độc lập. Ngày 14 tháng 1 năm 1899 khu Cap Saint Jacques thành lập tổng Vũng Tàu gồm 7 làng. Theo phân cấp hành chính của Pháp, Thành phố / Thị trấn / Làng (commune) là cấp đơn vị hành chính địa phương thấp nhất của Cộng hòa Pháp. Cấp hành chính trêmune là tổng (canton). Do đó, từ thành phố (commune) nâng cấp lên thành tổng là hợp lý. Hiện tại nước Pháp có 22 vùng (région), 96 tỉnh (département, trước cách mạng Pháp 1789 gọi là province), 329 quận (arrondissement), 3.883 tổng (canton) và 36.783 Thành phố / Thị trấn / Làng (commune).
Năm 1901, dân số Vũng Tàu là 5.690 người, trong đó có gần 2.000 người di cư từ miền Bắc vào, sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt thủy hải sản. Ngày 1 tháng 4 năm 1905 theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương, Cap Saint Jacques không còn là thành phố tự trị mà trở thành đơn vị hành chính thuộc tỉnh Bà Rịa. Năm 1929 Cap Saint Jacques trở thành tỉnh riêng, rồi đến năm 1934 tỉnh Cap Saint Jacques lại hạ cấp xuống thành thành phố (commune). Giờ đây là thành phố thủ phủ của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Một điều đáng lưu ý là nước ngọt sử dụng ở Vũng Tàu được bơm theo đường ống dẫn từ Bà Rịa ra.
Sau khi ổn định được tỉnh Gia Định rồi, Giang Phong đã cho xây dựng một khu định cư mới tại vùng đất thuộc Vũng Tàu ngày nay. Theo truyền thống đặt tên bằng Hán Việt thời bấy giờ, Giang Phong đã lấy tên Long Sơn, một hòn đảo khá nổi tiếng thuộc Vũng Tàu, làm tên huyện, và cũng để phù hợp với Long Hải huyện cũng ở bên cạnh. Cả Long Sơn huyện và Long Hải huyện đều thuộc Gia Định quận. Giang Phong không quy nó về Biên Hòa quận, bởi thời bấy giờ, chưa có đường lớn đi từ Long Sơn về Biên Hòa. Theo sông Gia Định (tức sông Đồng Nai), từ Long Sơn huyện đi về Gia Định Thành trước, rồi mới đến Biên Hòa quận sau.
Long Sơn huyện lúc này là một khu dân cư đặc biệt. Cư dân đều là gia đình những người làm việc trong Xưởng đóng thuyền của Giang Phong, phụ trách nghiên cứu, đóng mới thuyền hạm và cải trang, sửa chữa những thuyền hạm chiến lợi phẩm. Xưởng đóng thuyền này ban đầu được xây dựng ở đảo Hải Tân, sau đó di dời sang An Phú Thành, và lúc này lại di dời đến đây.
Hôm nay, Giang Phong ra thị sát Xưởng đóng thuyền ở Long Sơn, tháp tùng có lão Quảng Tế Pháp sư và Hải quân bộ bộ trưởng Đinh An Bình. Tổng quản Công xưởng là Phạm Phú Chính, một nghệ nhân đóng thuyền giỏi của Đại Việt đã từng theo Giang Phong từ thời ở Hải Tân, đưa Giang Phong ra thị sát các khu vực đóng thuyền hạm. Ở đó lúc này có hàng trăm người đang hì hục làm việc. Trong khu vịnh sát công xưởng hiện đang neo đậu hàng trăm thuyền hạm. Phạm Phú Chính đưa tay chỉ ra vịnh nói :
- Đại nhân. Đó chính là số thuyền hạm chiến lợi phẩm mà Đại nhân đã cho đưa đến hôm trước.
Hơn ba trăm chiến hạm cỡ lớn neo đậu san sát trong vịnh, quang cảnh tráng quán vô cùng. Nhưng Giang Phong chỉ nhìn qua một lượt, rồi nói với vẻ không hài lòng :
- Chẳng phải nói có hơn 60 bảo thuyền rất lớn hay sao. Sao giờ không thấy chiếc nào cả ?
Theo báo cáo trước đây, đoàn thuyền của Trịnh Hòa có 63 chiếc bảo thuyền, lớn hơn mã thuyền rất nhiều. Nhưng Giang Phong chẳng thấy có chiếc thuyền nào đặc biệt lớn so với mã thuyền cả. Theo ‘Doanh nhai thắng lãm’ (viết năm 1451), Trịnh Hòa hàng hải bảo thuyền có 63 chiếc, là loại thuyền lớn nhất thời bấy giờ, tính ra dài 151,18 mét, rộng khoảng 61,6 đến 75 mét. Trên thuyền có 9 cột buồm, treo 12 buồm mành. Mỏ neo nặng mấy nghìn cân. Cần sử dụng 200 thủy thủ mới có thể hoạt động, có thể chở nghìn người.
Quảng Tế Pháp sư nói :
- Hồi bẩm Đại nhân. Bảo thuyền được mô tả trong báo cáo trước đây là loại thuyền mà Minh triều sử dụng trong lễ khởi hàng của Trịnh Hòa. Theo thông tin mới nhất, loại thuyền đó tuy lớn, nhưng không chịu được sóng gió, chỉ có thể sử dụng trong sông hồ chứ không ra biển được.