Long Sơn huyện. Giang Phong cùng Quảng Tế Pháp sư và Đinh An Bình đi thị sát Xưởng đóng thuyền ở đây. Khi nhìn thấy chiến hạm mới được đóng, Đinh An Bình vô cùng hưng phấn, kỳ vọng Giang Phong cho đại quy mô trang bị cho các Hạm đội. Giang Phong cau mày suy nghĩ giây lát, rồi hỏi Tổng quản Xưởng đóng thuyền Phạm Phú Chính :
- Tốc độ chiến hạm này có thể đạt đến bao nhiêu ?
Phạm Phú Chính cung kính đáp :
- Hồi bẩm Đại nhân. Chiến hạm sử dụng bánh xe đẩy nước thay cho mái chèo, tốc độ rất khả quan, lại hoạt động ổn định. Nếu 12 bánh xe và 12 cột buồm cùng lúc sử dụng, chiến hạm có thể đạt từ 50 đến 60 dặm một canh giờ. Khi thuận gió sẽ nhanh hơn, còn ngược gió sẽ chậm hơn một chút.
Tốc độ 50 – 60 dặm một canh giờ, tức 10 – 12 kilômét mỗi giờ, như thế là cũng đã khá nhanh so với tình hình thuyền bè đương thời. Nên biết, theo các tư liệu của người Tàu, Trịnh Hòa từ Minh triều kinh đô Kim Lăng (tức Nam Kinh, Giang Tô) khởi hàng vào ngày rằm tháng 6, lần mò trên biển đến hơn 1 năm, đến tận ngày 30 tháng 6 năm sau mới đến được Java. Mà khoảng cách từ Nam Kinh đến Java, theo đường thẳng chỉ có khoảng 4.500 kilômét, mà nếu đi men theo bờ biển thì cũng chỉ vào khoảng 7, 8 nghìn. Thuyền bè của Minh triều lớn thì có lớn thật, nhưng tốc độ thì … hết nói. Họ lại sử dụng buồm mành, không sử dụng vải mà dùng mành ghép bằng những thanh tre, trúc làm buồm. Theo Ibn Battuta (một học giả và là nhà du hành nổi tiếng người Ma Rốc, với các chuyến du hành gọi là ‘Rihla’ trong suốt hơn 30 năm, được coi là một trong những nhà du hành vĩ đại nhất, ‘the greatest travellers’, ngang hàng với Marco Polo, nhưng ông đi đường biển, còn Marco Polo đi đường bộ), người đã đến Trung Quốc vào năm 1347 thì : “Các tàu thuyền Trung Quốc có ba loại : loại thuyền lớn được gọi là thuyền mành, loại trung bình gọi là thuyền buồm và loại nhỏ là kakam (?, không dịch được). Loại lớn có thể có từ 3 đến 12 buồm, được làm từ các thanh tre gắn kết lại như cái mành. Chúng không bao giờ bị hạ xuống, nhưng xoay theo hướng gió; khi bỏ neo thì chúng được thả để tự do xoay theo gió. (…) Một thuyền có thể chở tới cả ngàn người, sáu trăm người trong số đó là các thủy thủ và bốn trăm người được trang bị vũ khí, bao gồm các cung thủ, những người mang mộc và nỏ để bắn các loại tên có lửa.”
Giang Phong không ưa kiểu buồm mành đó, nên các chiến thuyền chiến lợi phẩm đều phải cải trang, sửa chữa lại. Còn đối với bọn Đinh An Bình, chiến thuyền của Minh triều quá yếu ớt, không thể không sửa chữa. Bọn họ đã quen sử dụng thần công đại pháo để chiến đấu, nên trên thuyền chỉ trang bị mộc, nỏ, tên lửa (mũi tên có gắn vật dễ cháy, có thể đốt lửa), trong mắt bọn họ là quá yếu ớt. Nói về thần công đại pháo, người Tàu tôn xưng Hồ Nguyên Trừng (con thứ của Hồ Quý Ly) là ông tổ của súng thần công, nhưng thật ra Hồ Nguyên Trừng chỉ cải tiến súng thần công, còn trước đó nhà Trần đã từng sử dụng súng thần công trong chiến tranh rồi. Sử sách chép rằng, trong khi chống Chiêm Thành, Trần Khát Chân đã phục kích quân Chiêm, dùng súng lớn bắn các chiến thuyền của giặc, vua Chiêm là Chế Bồng Nga trúng đạn chết. Không biết ai là người đầu tiên chế súng thần công ở Đại Việt, nhưng ít nhất là vào thời Trần, quân đội Đại Việt đã sử dụng súng thần công. Còn đến thời Hồ, quân Việt đã có súng lớn do voi mang, súng vừa hai người khiêng và súng nhỏ do một người vác trên vai. Hồ Quý Ly còn cho đúc rất nhiều để chống quân Minh. Chỉ tiếc họ Hồ làm nhiều việc mất lòng dân nên mới thất bại.
Lại nói về Giang Phong, sau khi kiểm tra nội thất tân chiến hạm, Giang Phong hài lòng phán :
- Chiến hạm loại này hãy gọi là Thất Tinh cấp chiến hạm, các Hạm đội sẽ sử dụng làm chủ chiến hạm. Tuần hạm cải thành tuần dương hạm. Vận hạm cải thành đại hình chiến thuyền, quân hạm cải thành trung hình chiến thuyền, chiến hạm cải thành tiểu hình chiến thuyền.
Theo quy định mới này, chỉ từ cấp độ tuần dương hạm trở lên mới được gọi là hạm, còn lại đều là chiến thuyền. Mặc dù nhiều chiến thuyền đã có tải trọng hàng nghìn tấn, lớn hơn nhiều loại chiến hạm thời cận đại. Giang Phong lại bảo Phạm Phú Chính :
- Mở rộng công xưởng sao cho có thể đồng thời đóng 10 chiến hạm. Tập trung nghiên cứu gia tăng tốc độ các chiến hạm. Tổ chức nghiên cứu Lục Tinh cấp chiến hạm. Cần gì cứ thông báo với Chính vụ bộ.
Thị sát xong hết, Giang Phong tạm hài lòng đối với các thành tựu của Xưởng đóng thuyền. Sau khi dặn bảo bọn Phạm Phú Chính những vấn đề cần ưu tiên, Giang Phong cùng Quảng Tế Pháp sư