Giang lịch năm thứ 3 vạn 9.516 (Giáp Ngọ, 1414), mùa hạ tháng 5. Thiên Trường.
Phạm Thế Căng xử lý quân cơ sự vụ xong, quay sang nhìn 2 thanh niên tự xưng là Trần Văn và Trần Vũ kia một lượt, rồi chỉ tủm tỉm cười. Cả hai vội đứng dậy vòng tay nói :
- Tướng quân.
Phạm Thế Căng vẫn không đứng dậy đáp lễ, chỉ khẽ cười nói :
- Hai ngươi bất tất đa lễ, cũng không cần giấu diếm thân phận làm gì.
Cả hai nghe Phạm Thế Căng nói vậy, kinh hãi vô cùng. Một người ấp úng nói :
- Tướng quân biết chúng ta ?
Phạm Thế Căng cười nói :
- Ta với Ứng Long tuy không có nhiều giao tình, nhưng dù sao cũng là đồng liêu. Thần thái của ngươi khá giống Ứng Long, không khó để nhận ra. Ta cũng rất kính nể Băng Hồ Công.
Cả hai nghe nói giật mình, vội nghiêng người thi lễ, nói :
- Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn bái kiến Tướng quân.
Ứng Long là tên thật của Nguyễn Phi Khanh. Phạm Thế Căng có biết Nguyễn Phi Khanh, nên nhận ra thanh niên kia là ái tử của Nguyễn Phi Khanh - Nguyễn Trãi. Trước đây Phạm Thế Căng từng nghe nói Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn kết bạn chu du khắp nơi tìm minh chủ, nên khi nhận ra Nguyễn Trãi thì cũng đoán biết người còn lại hẳn là Trần Nguyên Hãn. Băng Hồ Công là Trần Nguyên Đán, ông nội của Trần Nguyên Hãn, làm quan Tư đồ dưới thời Trần. Nguyễn Trãi là cháu ngoại của Trần Nguyên Đán nên cùng Trần Nguyên Hãn cũng là thân thích.
Phạm Thế Căng cười nói :
- Bất tất đa lễ. Cứ ngồi đi.
Cả hai vâng dạ, ngồi xuống. Tuy Phạm Thế Căng chỉ ngồi trên soái vị, không hề đứng dậy chào đón, không thể gọi là lễ hiền hạ sĩ, nhưng cả hai người cũng không lộ vẻ bất mãn hay có ý không vui. Sách “Tang thương ngẫu lục” có chép rằng hai người ‘ra mắt’ Lê Lợi đến 2 lần : lần đầu, hai người đến và bỏ về sau khi thấy Lê Lợi xé thịt bằng tay và đưa lên miệng ăn ngay trong ngày giỗ; lần thứ hai, hai người mới ở lại sau khi thấy Lê Lợi thức khuya nghiền ngẫm binh thư. Điều đó chứng tỏ cả hai đều nghiêm khắc với việc chọn minh chủ để phò tá. Có điều Phạm Thế Căng khác Lê Lợi. Lê Lợi chỉ là thổ hào ở vùng Lam Sơn, trước khi khởi nghĩa thì danh vọng không lớn. Còn Phạm Thế Căng là ‘đệ nhất danh tướng’ của Đại Việt, vị cao quyền trọng. Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn lúc này chỉ là những thanh niên có chí lớn, chưa trở thành hiền thần hay danh tướng, thân phận không thể sánh bằng Phạm Thế Căng. Hơn nữa, Phạm Thế Căng cùng với Nguyễn Phi Khanh là đồng liêu, đó cũng là sự thật. Thậm chí, thân phận địa vị của Phạm Thế Căng so với Nguyễn Phi Khanh còn cao hơn, và so với các con của Trần Nguyên Đán cũng cao hơn hẳn. Các con của Trần Nguyên Đán chỉ được làm Tướng quân bình thường; còn Phạm Thế Căng tổng lĩnh Nam Trấn, cai quản 3 phủ Thuận Hóa, Tân Bình và Thăng Hoa, là biên cương trọng thần, được quyền tự chiêu mộ binh mã (các tướng khác tự chiêu mộ binh mã sẽ bị xem như là tạo phản). Do đó Phạm Thế Căng xem bọn Nguyễn Trãi là hậu bối cũng không có gì là không phải, nhất là lúc này, sau khi chiếm được Thiên Trường, thanh thế và danh vọng đều tăng cao.
Bọn Nguyễn Trãi ngồi xuống rồi, Nguyễn Trãi mới hỏi :
- Tướng quân nay đã chiếm được Thiên Trường rồi, không biết khi nào ra lấy lại Đông Quan ?
Phạm Thế Căng nói :
- Đông Quan ? Ý ngươi muốn nói Thăng Long. Đông Quan là tên của họ Hồ gọi, bản triều vẫn gọi nó là Thăng Long. Triều đình đã ban chỉ, lấy đất từ Trường Yên đến Lạng Giang thành lập tỉnh Thăng Long, lấy Thăng Long Thành làm trị sở. Bản tướng đương nhiên phải lấy lại Thăng Long. Bọn Trương Phụ hiện chỉ còn lại một ít quân đội, không phải lo.
Nghe Phạm Thế Căng nhắc đến điều mà bọn họ vẫn thắc mắc bấy lâu, Nguyễn Trãi vội hỏi :
- Xin hỏi Tướng quân, triều đình ở đâu ạ ? Triều đình đã lập, sao không chiếu cáo thiên hạ ?
Phạm Thế Căng khẽ cười, nói :
- Triều đình không phải mới lập. Chúng ta phò tá Thánh hoàng, thành lập đạo quân đầu tiên vào năm Mậu Dần ở Kiềm Châu, hành doanh đặt ở Thánh Sơn. Đến năm Canh Thìn, cũng là năm Quý Ly xưng đế, Thánh hoàng đã dời hành doanh đến Hóa Châu, đồng thời thành lập Hải quân. Đến năm Quý Mùi, bản triều xây dựng An Phú Thành, Thánh hoàng lại dời hành doanh đến đó. Sang năm sau, Thánh hoàng chính thức chọn Gia Định Thành làm kinh đô, dời triều đình đến Gia Định. Bản triều đã chuẩn bị bắc phạt từ khi còn ở Kiềm Châu, đương nhiên không thể phô trương để cho giặc Ngô biết mà đề phòng. Đâu có như bọn Giản Định, Trùng Quang, chỉ có một ít binh mã mà đã huênh hoang tự xem mình là Thiên tử, rồi lại còn sợ thiên hạ không ai biết.
Bọn Nguyễn Trãi nghe Phạm Thế Căng nói thế, càng thêm ngơ ngác. Nguyễn Trãi từng đọc rất nhiều sách, có thể nói là tinh thông ‘thiên văn địa lý’ (Nguyễn Trãi từng viết quyển ‘Dư Địa Chí’, đương nhiên là khái niệm ‘thiên văn địa lý’ của