Đầu tháng năm, Song Tà khởi hành cho kịp cuộc hẹn ngày rằm tháng tám. Tống Thu ở lại, ngày đêm rèn luyện võ nghệ. Mối đại thù đã giúp chàng tăng thêm nghị lực. Cái chết thảm của song thân gặm nhấm tâm hồn thơ dại của Tống Thu. Chàng trở nên lạnh lùng khắc bạc đôi mắt tràn đầy vẻ cừu hận. Trước đây, chàng vẫn bị Địa Tà chê rằng kiếm pháp không có hồn. Nay chàng đã đen lửa thù phổ vào chiêu thức nên sát khí dàn dụa, đường kiếm hiểm độc, phát huy hết tinh tuý của pho Diêm Vương Tuyệt Kiếm. Nhưng khi ôn luyện pho Thiên Lôi Thần Chưởng chàng lại mang tâm trạng khác. Đây quả là sở học của người quân tử, chiêu thức hùng mạnh, trầm bổng, quang minh chính đại. Đông đến, tuyết rơi phủ trắng Bạch Đế Thành, càng làm tăng vẻ hoang tàn tịch mịch, Tống Thu vào rừng tìm ít dã vị. Bạch Đế Sơn chỉ cao hơn trăm trượng nhưng rừng rậm bạt ngàn, muông thú rất nhiều. Sau một canh giờ chàng đã bắt được ba chú thỏ xám béo tròn. Tống Thu đang định trở về thì nghe vọng lại tiếng kêu ú ớ nấc nghẹn. Chàng vội tung mình về phía đỉnh núi để xem sự thể. Cạnh hồ nước, dưới chân thác, con Mãng Xà lớn bằng bắp đùi người đang quấn chặt một thiếu nữ. Nạn nhân tuyệt vọng cố giẫy dụa để thoát khỏi những vòng tròn đang ngày càng siết lại. Tống Thu kinh hãi buông rơi ba con thỏ, nhảy đến vung chưởng giáng vào đầu con ác thú. Chàng đã dồn hết sáu thành Càn Khôn chân khí vào bàn tay nên đầu Mãng Xà nát bét như trái dưa bể. Thân nó lỏng ra buông rơi con mồi. Thiếu nữ lồm cồm đứng lên, chạy đến nắm tay Tống Thu. Đôi môi tái nhợt ú ớ những âm thanh vô nghĩa của người câm, đôi mắt đẹp ánh lên lòng biết ơn vô hạn. Tống Thu hiểu ý nàng muốn cảm tạ, liền lạnh lùng bảo:
- Cô nương đừng bận tâm, mau trở về nhà đi thôi.
Tứ Xuyên là vùng có nhiều sắc dân thiểu số. Nhìn y phục, chàng đoán thiếu nữ thuộc giống người Bạch. Tống Thu nhặt lấy thỏ quay lưng trở đi. Về đến toà cổ thành, chàng xắn tay áo chuẩn bị bữa ăn trưa, bên chiếc giếng đá giữa sân. Vừa làm thịt xong ba con vật, tiếng chân bước nặng nề khiến chàng giật mình nhìn lên. Thiếu nữ câm với chiếc gùi mây trên lưng đang tiến vào. Tuyết bám đầy trên mái tóc huyền và đôi vai gầy guộc nhỏ. Thấy đôi môi nàng tun rẩy vì giá lạnh. Tống Thu cau mày nói:
- Cô nương mau vào bếp sưởi ấm.
Thiếu nữ mỉm cười đi theo chàng. Dưới ánh lửa hồng. Tống Thu chợt nhận ra nàng rất đẹp. Những vết lem luốc vì đất cát đã được rửa sạch, để lộ ra một dung nhan làm xao xuyến lòng người. Tống Thu ngắm nhìn gương mặt kiều diễm. Đôi mắt nàng to tròn, đen láy, mang vẻ đẹp hoang sơ lồng lộng của núi rừng. Một cảm giác lạ lùng len lén dâng lên. Một đốm than hồng nổ lớn, bắn vào da tay, khiến Tống Thu bừng tỉnh. Chàng hổ thẹn cố tỏ vẻ lãnh đạm:
- Ta là Bách Lý Tống Thu. Phương danh của cô nương là gì?
Hỏi xong chàng mới biết mình thất thố. Người con gái bị câm đâu thể nói được? Nào ngờ nàng mỉm cười dùng que cời than viết trên mặt đất:
- Tiểu nữ là Cốc Thượng Sương, nhà ở phía sau chân núi.
- Sao cô nương không về nhà mà lại đến đây làm gì?
- Tiểu nữ mồ côi cha mẹ, nay chịu ơn cứu tử nên xin được làm nô bộc cho công tử.
Chàng lại muốn có người lo việc ẩm thực, để dành hết thời gian cho việc luyện võ nên đồng ý:
- Được. Ta cũng đang cần một người giúp việc.
Từ ấy, Thượng Sương ở lại toà thành cổ. Nàng thường vào rừng hái thuốc, sắc lên, bắt Tống Thu phải uống. Đôi mắt đẹp mê hồn đầy vẻ thiết tha khiến chàng không thể từ chối. Nào ngờ những chén thuốc ấy khiến chàng càng tăng tiến rất nhanh. Đến cuối tháng mười một, chàng đã hoàn thành lớp thứ bảy của Càn Khôn Tâm Pháp.
(Một đoạn bị mất)
Tống Thu vung kiếm chặt sạch đám dây rừng, ngạc nhiên nhận ra hang nhỏ nằm dưới một cánh cửa đá. Dẫu rêu xanh đã phủ đầy nhưng cũng có thể nhận ra khe cửa thẳng thớm. Chàng vận công đẩy thử. Dù tuổi chàng còn trẻ nhưng nhờ hai viên Dịch Cân Hoàn và Tố Nữ Hoàn nên đã có hơn ba mươi năm công lực. Cánh cửa đá nặng nề kia kêu lên kèn kẹt, hé mở dần. Tống Thu quạt liền tám chưởng, xô đuổi khí độc ra ngoài, rồi chậm rãi bước vào trong. Thượng Sương ríu ríu theo sau. Tống Thu vừa đi vừa vung chưởng giáng xuống nên mật đạo xua đuổi rắn rết. Nhưng cũng may chẳng có gì cả. Hết đoạn đường ba trượng là đến gian thạch động rộng rãi và sáng sủa. ánh sáng từ những lỗ nhỏ trên trần động tỏa xuống lờ mờ. Dẫu đã gần Ngọ mà vầng dương mùa Đông vẫn nhạt nhòa. Thạch sảnh bài trí đơn sơ. Mé hữu là một chiếc bàn đá và cạnh đấy có thạch sàng. Điểm thể của chủ nhân đang ngồi kiết già trên giường đá. Bộ trường bào thư sinh màu trắng không hiểu dệt bằng loại tơ gì mà vẫn còn nguyên vẹn. Xác người vẫn không hề bị hư nát, gương mặt anh tuấn, uy nghiêm của ông ta khiến Tống Thu sinh lòng ngưỡng mộ. Chàng nghiêng mình vái ba vái rồi xem xét những vật để trên bàn. Chàng cầm chiếc quạt xếp lên, bất ngờ nhận ra nó làm bằng thép, nan quạt gồm tám cây, đầu sắc bén như dao cạo. Màng quạt làm bằng tơ vàng óng, trên thêu hai câu thơ:
Tương tư Hoàng điệp lạc.
Bạch lộ thấp thanh đài.
(Nhớ nhau vàng lá rụng.
Móc trắng rêu xanh rì.)
Tống Thu nhận ra đây là hai câu cuối của bài Gửi phương xa. Trong bài thơ ký viễn này, Lý Bạch nói lên nỗi nhớ nhung người đẹp đã ra đi. Trên nan bìa, chỗ tay cầm, có khắc bảy chữ rất nhỏ : Thiết phiến Tu La Cố Thiên Châu. Tống Thu cũng đang yêu nên đồng cảm với người đã chết. Chàng gật gù lẩm bẩm:
- Thiết Phiến Tu La không ngờ lại là kẻ đa tlnh hiếm có.
Chàng đã nghe nghĩa phụ Thiên Tà Bách Lý Hạc kể về nhân vật này. Cố Thiên Châu là bậc kỳ nhân cùng thời với Càn Khôn Lão Nhân. Ông say mê Vu Sơn Thần Nữ Đổng Xuân Oanh, cùng nàng kết giao, sánh đôi hành hiệp hơn một năm trời. Nhưng bản tính thần nữ cực kỳ kiêu ngạo, chỉ chịu lấy Thiên Hạ Đệ Nhất Nhân. Lúc bấy giờ Vũ Khúc Tinh Quân Anh Thúc Vân được coi là người có võ công cao nhất võ lâm. Lão cũng đem lòng yêu Thần Nữ nên đến Vu Sơn khiêu chiến với Thiết Phiến Tu La. Cố Thiên Châu bị trúng một đạo Vũ Khúc Thần Chỉ đàng nuốt hận bỏ đi, nhường mỹ nhân cho họ Anh. Từ ấy, ông tuyệt tích giang hồ. Tống Thu bồi hồi thương cảm cho Tu La. Chàng lơ đãng mở phong thư nằm dưới cây thiết phiến: Hậu sinh nhã giám. Lão phu ôm mối hận tình, về Bạch Đế ẩn cư luyện võ công, mong có ngày đả bại Vũ Khúc Tinh Quân. Nhưng sau hai mươi năm vẫn không tìm ra cách nào khắc chế Vũ Khúc Thần Chỉ. Một hôm lão phu tình cờ đọc một cuốn cổ thư, biết rằng phái Mật Tông ở Tây Tạng có môn Xúc Cốt Du Già Đại Pháp Công phu này giúp người ta thu nhỏ thân hình lại, màn cương khí hộ thân giày đặc hơn và chống lại được chưởng chỉ. Lão phu mừng rỡ lên đường đế Tây Tạng, vào đại chiếu tự đánh cắp chân kinh. Dù đắc thủ nhưng lão phu lại trúng một chưởng Đại Thủ ấn của Ban Thiền Hoạt Phật. Khi về đến Bạch Đế Sơn thì thương thế phát tác. Tự biết mình không sống nổi, lão phu cố dịch ra tiếng Hán, để lại cho người hữu duyên. Ngoài ra còn truyền lại Thiết Phiến và bí kíp Thiết Phiến Thần Phổ. Kẻ hậu sinh vào được chốn này xin hãy dùng hai pho tuyệt học phù trì chính đạo. Nếu có dịp, hãy so tài với truyền nhân của Tinh Quân. Đó là tâm nguyện cuối cùng của lão phu. Thiết Phiến Tu La Cố Thiên Chân di bút. Đọc xong di thư, Tống Thu cầm hai pho bí kíp và quạt sắt, đứng trước giường đá vòng tay vái rồi hứa:
- Vãn bối nguyện sẽ tuân theo di ý của tiền bối.
Thượng Sương tinh mắt thấy ở chân giường có một rương gỗ nhỏ, nàng mở ra thử xem ánh sáng rực rỡ của châu báu toả ra chói mắt. Tống Thu thầm nghĩ để lại cũng vô ích, chàng bảo nàng mang theo. Trong suốt nửa năm trời sau đó. Tống Thu miệt mài khổ luyện pho Thiết Phiến Lôi phong và Xúc Cốt Du Già Đại Pháp. May mắn lúc chưa đầy tuổi chàng đã được mẫu thân là Lô Sơn Tiên Tử cho uống một viên Dịch Cân Hoàn nên dễ dàng luyện thành Xúc Cốt Đại Pháp. Tháng sau năm sau, Tống Thu tròn mười tám tuổi. Thấy võ công đã thành tựu, chàng quyết định đưa Sương nhi hạ sơn. Mối đại cừu sôi sục trong lòng khiến chàng không thể chờ đợi được nữa. Nghĩa mẫu của chàng Địa Tà Thái Đàm Thủy chính thực là Thánh Nữ đất Miêu Cương. Ngoài pho Diêm Vương Tuyệt Kiếm tàn nhẫn vô song, bà còn thiện nghề sai xử độc vật, độc trùng. Chỉ trong ba năm xuất đạo giang hồ đã tạo được ác danh là Địa Sát Tiên Cơ. Thiên Tà thuở ấy có danh là Hoài Giang Tú Sĩ, võ công xuất chúng, dung mạo phi phàm. Ông đã đem tình yêu chân thực của mình cảm hoá được Địa Sát Tiên Cơ. Hai người kết duyên Tần Tấn, sánh vai hành hiệp, xưng là Thiên Địa Song Tà. Thái Đàm Thủy đã bớt dần tính hiếu sát, trở thành một người vợ hiền thục. Nhưng mãi đến tuổi ngũ tuần mà không có con, bà thất vọng, phóng tay giết người. Càn Khôn Lão Nhân, là sư phụ của Thiên Tà bèn bắt buộc hai người phải ẩn cư. Họ chọn Bạch Đế Thành vì đất Phụng Tiết có nhiều người Miêu đồng hương với Địa Tà. Trước khi lên đường đi Ngoại Mông phó ước, Địa Tà đã dặn dò Tống Thu:
- Thu nhi. Con cứ yên tâm lo việc luyện võ và tiến hành báo gia cừu, không cần quan tâm đến an nguy của chúng ta. Mẫu thân đã ban cho Thu nhi một con Bảo Mệnh Cổ Trùng, kỳ vật hiếm có đất Nam Hoang. Sau này sẽ không có bất cứ loại độc dược nào trên đời có thể làm hại con được. Hơn nữa, Cổ Trùng chính là mối dây liên lạc giữa con và chúng ta. Khi nào thấy Cổ Trùng máy động liên hồi thì con hãy xuất quan để cứu bọn ta.
Nhớ lời căn dặn ấy Tống Thu yên tâm rời Bạch Đế Thành. Chàng giao việc coi sóc cho một thợ săn già người Miêu. Lão này thọ ơn cứu mạng của Thiên Tà nên vẫn thường lui tới biếu xén thăm hỏi. Xuống đến trấn Quì Nhủ, hai người mua sắm y phục và tuấn mã. Thượng Sương vui vẻ cởi bỏ Miêu phục, trở thành một nữ tỳ người Hán xinh đẹp. Tống Thu quen với cách ăn mặc của nghĩa phụ Thiên Tà nên chọn những bộ trường bào thư sinh. Thiên Địa Song Tà biết trước rằng nghĩa tử của mình sau này sẽ phải dấn thân vào chốn giang hồ để báo cừu. Họ tận tâm đem những kinh nghiệm qui củ ra giảng giải, nhờ vậy, Tống Thu không đến nỗi bỡ ngỡ khi xuất đạo. Hơn nữa, chàng bẩm sinh vốn là người cơ trí, thông tuệ nên khó ai qua mặt được. Có lẽ đức tính này chàng thừa hưởng được của mẫu thân là Lô Sơn Tiên Tử Cam Tần Mi. Đôi thiếu niên rời Quì Phủ, đi dọc theo Đại Độ Hà để đến Thành Đô, thủ phủ của Tứ Xuyên. Đã nghe nghĩa mẫu cho biết Trác Gia Trang đã đổi chủ nên. Tống Thu không tìm đến nữa. Chàng đưa Sương nhi đi thẳng đến tế mộ song thân. Mười hai ngày sau, họ có mặt ở Trường Sa, trọ trong Hồ Nam Đại Khách Điếm. Sau khi luyện xong Xúc Cốt Du Già Đại Pháp, Tống Thu nẩy ra kế sách dùng hai thân phận để đối phó với Vũ Khúc Tinh Cung. Thiên Địa Song Tà đã qui ẩn bốn chục năm nay, võ công của họ không mấy người nhận biết, nhất là pho Diêm Vương Tuyệt Kiếm. Dưới tay Địa Tà không một ai sống sót. Thiên Địa Song Tà là một cặp phu thê quái dị nhất trần gian. Thiên Tà Bách Lý Hạc ôn nhu, văn nhã, quân tử lẫm lẫm nhân hậu có thừa. Ngược lại, Địa Tà Thái Đàm Thủy tính nết lạnh lùng hiếu sát. Tống Thu vô tình tiếp nhận cả hai tính cách ấy. Nay chàng muốn đóng hai vai trái nghịch nhau cũng không phải là chuyện khó. Bách Lý Tống Thu và Trác Nam Thu sẽ cùng tồn tại, cùng một mục tiêu là Vũ Khúc Tinh Cung. Bách Lý Tống Thu sẽ dùng võ công của Thiết Phiến Tu La mà dương danh. Còn Trác Nam Thu sẽ đem tuyệt học của Song Tà ra tiêu diệt vây cánh của kẻ thù. Hai người nhận phòng, tắm gội xong liền xuống tầng dưới dể dùng cơm chiều ánh dương quang nhợt nhạt cuối trời Tây, không đủ soi hồng đôi má giai nhân. Đôi người ngọc xuất hiện khiến thực sảnh sáng hẳn lên. Mọi người thầm khen ngợi, xuýt xoa. Tống Thu khí chất phi phàm mặt đẹp như Tử Đô, Tống Ngọc. Chiếc quạt xếp phất tơ vàng trong tay càng làm tăng vẻ văn nhã, cao quí. Sương nhi dẫu mặc áo xanh của tỳ nữ nhưng nhan sắc diễm lệ. Đối mắt huyền sâu thẳm, mênh mang như núi rừng Miêu Lĩnh, làm say hồn quân tử. Nàng không nói được nên ánh mắt nụ cười rất biểu cảm thay thế cho ngàn vạn lời châu ngọc. Sương nhi đẹp đến nỗi đám nam nhân quên hẳn thân phận nô bộc của nàng. Trong xã hội thời bấy giờ, giá trị của một kẻ tôi tớ rất thấp kém. Nhưng đám hào khách giang hồ lại chẳng hề coi trọng điều ấy. Họ là những kẻ đội trời đạp đất xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, thì sá gì chút quan niệm giai cấp cổ lỗ? Các chàng thiếu niên hiệp khách còn thầm hoan hỉ vì người đẹp không phải là phu nhân của chàng công tử tuấn mỹ kia. Sự có mặt của mỹ nhân đã làm tăng hào khí cho các chàng trẻ tuổi. Họ kín đáo sửa sang đầu tóc, y phục, hiên ngang uống cạn liền mấy chung lớn, lớn giọng khoe khoang bản lãnh và kiến văn. Một chàng hiệp khách tuổi độ hai mươi, mặc võ phục xanh, áo choàng lục vàng rất diêm dúa, đã nhờ sáu chung rượu mà đủ dũng khí bước đến làm quen. Gã có gương mặt chữ điền, mũi thẳng, môi dầy, trông cũng khá điển trai. Chàng hiệp khách hùng dũng đứng bên bàn Tống Thu vòng tay nói:
- Tại hạ là Chấn Thiên Kiếm Bàng Vạn Lý, mạo muội xin được phép tiếp công tử vài chung.
Tống Thu mỉm cười hòa nhã :
- Huynh đài đã có nhã hứng, xin mời an tọa. Tại hạ là Bách Lý Tống Thu.
Họ Bàng ngồi xuống cười ha hả:
- Thật là tấn xảo. Tại hạ tên Vạn Lý còn công tử thì mang họ Bách Lý. Phải chăng chúng ta là những kẻ hữu duyên.
Gã quay sang gọi tiểu nhị:
- Ngươi mau dọn lên mười món ăn thượng hạng và vò Trúc diệp Thanh lâu năm, để ta và công tử đây mừng hội ngộ.
Tống Thu nhận xét họ Bàng tuy hơi ngốc nhưng là kẻ khoáng đạt, hào phóng. Chàng tủm tỉm hỏi:
- Bàng huynh khí chất như rồng phượng chắc là lai lịch không nhỏ?
Bàng Vạn Lý đắc ý đáp:
- Tại hạ chẳng dám dấu giếm công tử, gia phụ chính là Long Chưởng Ngân Kiếm Bành Thu Nhạn, chủ nhân Long Ngân Tiêu cục, danh tiếng lẫy lừng khắp Trung Nguyên. Còn gia sư là Thanh Lam Kiếm khách - Trưởng lão phái Hoa Sơn.
Tống Thu đã được nghe Song Tà nhắc đến hai người này, chàng vòng tay nói:
- Cửu ngưỡng. Cửu ngưỡng.
Tiểu nhị bưng rượu và thức ăn lên đến. Mùi rượu quí thơm phức tỏa bát ngát. Bàng Vạn Lý hồ hởi rót đầy chén Tống Thu và của mình. Gã ngập ngừng hỏi:
- Dám hỏi công tử cô nương đây phương danh là gì và có uống được rượu hay không.
Tống Thu cười mát đáp :
- Nàng là Cốc Thượng Sương, tỳ nữ của tại hạ còn về tửu lượng thì chỉ e huynh đài không địch lại.
Chấn Thiên Kiếm mừng rỡ :
- Thế thì thật là tuyệt diệu, tại hạ xin được mời Cốc cô nương.
Sau vài lần cạn chén, Bàng Vạn Lý đã ngà ngà say quay sang hỏi Sương nhi:
- Chẳng hay Cốc cô nương năm nay niên kỷ được bao nhiêu?
Nàng vui vẻ chấm rượu viết lên bàn con số mười bảy. Gã sửng sốt nhìn nàng, ngờ ngợ nhận ra mỹ nhân tại sao không hề mở miệng.Tống Thu đỡ lời:
- Sương nhi bị câm từ thuở bé, chỉ có thể bút đàm, mong huynh đài lượng thứ.
Bàng Vạn Lý hụt hẫng vì biết rằng cha mình chẳng bao giờ chấp nhận một nàng dâu tàn tật. Gã gượng cười:
- Thật đáng tiếc cho một mỹ nhân tuyệt thế.
Tống Thu cười hỏi :
- Bàng huynh mất cả nhã hứng rồi sao?
Chấn Thiên Kiếm hiểu ý giật mình. Gã cười khỏa lấp:
- Tại hạ mến mộ nhân phẩm Công tử nên mới sang đây chứ đâu phải vì Cốc cô nương. Xin mời cạn chén.
Gã đã bỏ ý định chinh phục Thượng Sương nên ăn nói tự nhiên, mất đi vẻ hợm hĩnh, hoa hòe. Nhờ vậy mà gã lại dễ thương hơn. Sau nửa canh giờ đàm đạo, thù tạc, gã đâm ra mến mộ chàng công tử tài hoa, thâm trầm này. ở Tống Thu toát ra cảm giác hòa ái, trung hậu khiến họ Bàng nghe lòng ấm áp, tin cậy. Khi biết chàng muốn định cư ở Trường Sa. Gã hân hoan vỗ ngực:
- Tại hạ xin hứa chỉ nội ngày mai sẽ tìm được cho công tử một gia trang vừa ý Bàng mỗ sinh trưởng ở đây mà. Trưa mai, mời công tử đến tệ xá dùng cơm rồi sau đó sẽ đi xem qua vài nơi. Tại hạ sẽ đích thân đến đón.
Bàng Vạn Lý gọi tiểu nhị tính tiền rồi cáo biệt. Trời đã tối hẳn, Tống Thu và Thượng Sương lên phòng nghỉ ngơi. Thượng Sương có vẻ buồn vì tự hiểu họ Bàng chê mình tàn tật. Nàng sợ rằng Tống Thu cũng sẽ giống như vậy nên một giọt lệ lăn trào ra khóe mắt. Sương nhi nhận thấy chàng nhìn sâu vào đôi mắt huyền rồi hôn lên giọt lệ trên gò má. Cái nhìn tràn ngập yêu thương khiến cho Sương nhi thức ngộ được rằng, đằng sau bộ mặt mặt lạnh lùng kia là: trá i tim nóng bỏng ân tình. Hôm sau, chưa đến đầu giờ ngọ, Chấn Thiên Kiếm Bàng Vạn Lý đã đưa xe song mã đến khách điếm đón khách. Tống Thu vòng tay cảm tạ, nói mấy câu khách sáo rồi cùng Sương nhi lên xe. Bàng Gia Trang nằm ở cửa Đông thành. Bàng Thu Nhạn là tay đại phú đất Hồ Nam nên cơ ngơi lộng lẫy và đồ sộ. Long Chưởng Ngân Kiếm nể lời quí tử nên gượng ra đón khách. Lão cười giả lả:
- Lão phu nghe khuyển tử hết lời tán tụng tài mạo của Bách Lý công tử, nay được diện kiến quả không ngoa. Xin mời vào.
Tống Thu kính cẩn đáp lễ rỗi nhập sảnh. Lão thầm kinh ngạc khi thấy viên lam ngọc to bằng hạt nhãn trên mũ thư sinh của khách. Sương nhi càng làm lão hết hồn. Nàng là tỳ nữ mà tai đeo đôi hồng ngọc, tóc cài bảo châu, ngực đeo chuỗi kim cương sáng rực. Lão thầm nghĩ:
- Trang sức của con bé nô tài này không dưới năm ngàn lượng. Xem ra gã công tử này quả là đáng chú ý.
Lão làm nghề bảo tiêu đã bốn chục năm nên rất sành việc đánh giá châu báu. Bàng Vạn Lý cũng nhận ra điều ấy gã chợt hiểu quan hệ giữa Tống Thu và Thượng sương. Có điều gì đó hơn là chủ tớ. Đây là bữa tiệc thân mật nên chỉ có gia đình họ Bàng. Nếu kể cả hai vị tiểu thơ, bào muội Vạn Lý, bàn tiệc chỉ có sáu người. Bàng phu nhân đã mất cách đây tám năm. Nhị tiểu thư Bàng Như Thanh tuổi đôi chín, người thon gầy, xinh đẹp nhưng phảng phất vẻ u sầu. Ngược lại, Tam tiểu thư Bàng Tuyết Hoa thấp hơn, da dẻ trắng trẻo, đôi mắt tinh anh đảo lộn, biểu hiện tính thông minh ranh mãnh. Hai nàng thấy khách vào vội đứng lên ra mắt. Dung mạo Tống Thu đã khiến trái tim xuân nữ rộn ràng. trước khi an tọa, Tống Thu vòng tay nói:
- Cung bẩm Bàng lão bá. Thượng Sương thực ra chính là nghĩa muội của vãn bối, mong lão bá lượng thứ.
Bàng Thu Nhạn cười ha hả:
- Có thế chứ. Lão phụ đã thầm đoán Cốc cô nương đầy cốt cách thanh kỳ chắc không phải là hạng nô bộc. Xin công tử cứ tự nhiên.
Lão nâng chén mời và ngạc nhiên khi thấy Sương nhi uống cạn một cách ngon lành. Rượu Phấn Sơn Tây nổi tiếng về độ cay nồng, vậy mà nàng chẳng hề nhăn mặt. Họ Bàng đâu biết rằng mùa đông đất Thục vô cùng khắc nghiệt, Tống Thu và Thượng Sương thường dùng rượu để chống rét nên tửu lượng rất cao. Bàng Vạn Lý thấy hai tiểu thư nhấm nháp từng hớp nhỏ liền cười chế giễu:
- Nhị muội và tam muội không biết uống rượu thì sao có thể xuất đạo giang hồ, gây dựng thanh danh hiệp nữ?
Hai nàng phụng phịu, giận hờn, liếc Sướng nhi bằng ánh mắt ghen ghét:
Tống Thu mỉm cười hỏi Vạn Lý:
- Bàng huynh đã tìm được nhà cho tại hạ chưa?
Chấn Thiên Kiếm vỗ ngực:
- Tại hạ đã đích thân dọ hỏi suốt buổi sáng nay và đã hoàn thành nhiệm vụ. Có ba tòa khang trang xinh đẹp đang chờ công tử đến thưởng lãm.
Bàng lão xen vào :
- Công tử cốt cách văn nhã nhưng lại xưng hô với Lý nhi theo lối giang hồ. Vậy xin hỏi lệnh sư là cao nhân phương nào?
Tống Thu đáp khéo :
- Gia sư ẩn cư đã mấy chục năm nên không tiện nhắc đến danh hiệu. Mong lão bá lượng giải cho.
Tam tiểu thư Bàng Tuyết Hoa không dằn được tính hiếu kỳ:
- Mong công tử biểu diễn vài đường tuyệt học để chị em muội được chiêm ngưỡng.
Tống Thu chưa kịp đáp thì viên Tổng quản vào báo:
- Bẩm lão gia. Cồ một khách nhân muốn hợp đồng bảo tiêu một rương gỗ nhỏ đến Thiếu Lâm Tự.
Bàng lão đang muốn tìm hiểu lai lịch Tống Thu nên nhíu mày bảo:
- Lão ra mời khách vào đây.
Lát sau, viên tổng quản dẫn hán tử trung niên vào đến. Bàng lão đứng lên, mời khách ngồi xuống bàn Bát tiên gần đấy Hán tử đảo cặp mắt sắc như dao, quan sát những người trong bàn tiệc. Bàng Thu Nhạn hiểu ý trấn an:
- Họ đều là con cháu trong nhà, các hạ cứ yên tâm. Xin cho biết quí danh và nội dung vật cần bảo tiêu?
Hán tử cất giọng thâm trầm:
- Tại hạ là Trương Tam, đệ tử tục gia Thiếu Lâm Tự. Còn trong rương này là quyển Bối Diệp chân kinh. Xin cho biết giá cả?
Bàng Thu Nhạn hỏi lại:
- Quyển kinh này quí giá đến mức nào mà phải cần bảo tiêu tiêu? Sao các hạ không dấu kín trọng mình mà mang đi. Có phải vật cồng kềnh gì đâu mà sợ lộ.
Trương Tam cười khẩy:
- Bối Diệp chân kinh là vật trấn sơn của bổn phái, thất lạc đã mười năm. Tại hạ vào sinh ra tử mới tìm lại được. Giới Hắc Đạo đang ngày đêm rình rập nếu không đâu cần nhờ đến Long Ngân Tiêu Cục?
Bàng lão trầm ngâm:
- Nếu thế, lão phu