Đám cưới của thái tử Siddhatta và công nương Yasodhara được tổ chức vào mùa Thu năm ấy.Đây là một cuộc vui mừng lớn cho cả vương quốc Sakya, nhất là cho dân chúng kinh kỳ.Khắp nơi thiên hạ treo cờ, treo đèn, kết hoa và tổ chức vũ nhạc.Song mã của Siddhatta và Yasodhara điểm tới đâu quần chúng reo hò tới đó.Siddhatta và Yasodhara cho xe chạy ra cả ngoại thành.Hai người đi tới những xóm làng quen biết và đem tặng đủ các thứ quà bánh và vải bô cho những gia đình túng thiếu nhất.Vua Suddhodana truyền dựng cho thái tử ba nơi trú cung, một cung cho mùa Đông, một cung cho mùa Hạ và một cung cho mùa mưa.
Cung mùa Hạ được xây dựng trên một cảnh đồi ngoạn mục miền cao nguyên, cung mùa mưa và cung mùa Đông ở ngay trong thành nội.
Cung nào cũng có hồ sen, hồ toàn sen xanh, hồ toàn sen đỏ, hồ toàn sen trắng.
Áo mũ khăn giầy của hai người đều được đặt làm từ thành Baranasi, tận vương quốc Kasi miền Tây Nam.
Trầm hương đốt hàng ngày cũng được nhập cảng từ vương quốc ấy.Vua Suddhodana rất yên tâm.
Vua nghĩ rằng Siddhatta đã đi trúng con đường vua mong ước, và vua truyền tuyển lựa các nhạc công và vũ công tài ba trong nước để thường trực giúp vui cho cặp vợ chồng mới cưới của hoàng gia.Nhưng hạnh phúc của Siddhatta cũng như của Yasodhara không phải là được sống bưng bít trong quyền quý và giàu sang.
Hạnh phúc của hai người là sự chia sẻ những nỗi niềm và những ước vọng của tâm linh với người mà mình có thể cởi mở tấm lòng.Họ không thực sự để tâm đến các cao lương mỹ vị hoặc các thứ xiêm y lụa là.
Họ thấy cái đẹp của vũ của nhạc nhưng họ không say mê trong việc vui chơi.
Họ có những khao khát riêng của họ: khao khát tìm được những câu trả lời thỏa đáng cho tâm hồn và cho xã hội.Mùa nóng năm sau, nhân được cư trú tới bốn tháng ở cung Hạ trên miền cao nguyên, Siddhatta rủ Yasodhara đi khám phá thêm về vương quốc Sakya.
Người hầu cận Channa vẫn luôn luôn là người đánh xe cho Siddhatta.
Họ tìm ra được nhiều phong cảnh sơn thủy rất tú lệ.
Họ chuẩn bị để có thể đến cư trú năm bảy ngày ở những nơi ấy.
Có khi họ xin ở lại ngủ nhà của thường dân và tìm dịp giúp đỡ cho các gia đình nghèo.
Họ đã thử ăn những món ăn dân dã, ngủ trên những chiếc giường tre sọc sạch của người dân, và họ tìm hiểu được rất nhiều về nếp sống và phong tục tập quán từng vùng.Có khi họ gặp những cảnh nghèo khổ cùng cực.
Họ gặp những cặp vợ chồng có tới chín hoặc mười đứa con, đứa nào cũng ốm tong teo, đứa nào cũng bệnh tật, trong khi đó cả vợ lẫn chồng dù làm việc quần quật suốt ngày đêm cũng chỉ đủ sức nuôi nổi hai đứa là cùng.
Nghèo khổ và bệnh tật là hai cái gánh nặng đè lên kiếp sống của người dân.
Ngoài hai cái gánh nặng ấy, còn có những cái gánh nặng khác: sự áp chế của giới cầm quyền và sự thống trị của các giáo sĩ Bà la môn.Ở miền quê, dân chúng có bị giới hương hào áp chế cũng không thể kêu ca vào đâu được.Kinh thành xa quá, với lại ở kinh thành cũng không quen biết ai.Siddhatta nhìn những em bé ốm tong teo, hai chân khẳng khiu như những ống sậy và cái bụng phình to vì giun sán.
Siddhatta nhìn những kẻ tàn tật và bệnh hoạn ăn xin ở các ngả đường.
Những cảnh tượng này làm cho thái tử mất hết mọi niềm vui.
Chàng thấy con người bị kềm hãm trong một tình thế không có lối thoát.
Chàng thấy dù chàng có quyền lực của một vị quốc vương chàng cũng không thể thay đổi tình trạng.Siddhatta biết khá rõ về tình trạng triều đình.
Người quyền quý làm đủ mọi cách để bảo vệ quyền thế và lợi ích của mình, không đếm xỉa gì đến khổ đau của người khác.
Họ lại còn lấn áp nhau, ganh tỵ nhau, và những tranh chấp của họ làm cho Siddhatta chán ngán cảnh chính trường.
Quyền lực của phụ vương chàng rất giới hạn và mỏng manh, Siddhatta thấy rất rõ điều ấy.
Làm vua như phụ vương chàng không thật sự có tự do.
Vua bị ràng buộc đủ thứ, và quyền bính lại chính là tù ngục đang giam hãm vua.
Phụ vương chàng biết trong triều đình có những vị đại thần hư hỏng và nhiều tham vọng, nhưng lại phải dựa vào những người ấy cho tình thế ổn định.
Chàng nghĩ nếu chàng đứng vào địa vị của cha, có thể chàng cũng phải làm như thế.
Chàng thấy chỉ khi nào con người chuyển đổi được nội tâm mình, đập tan được những tham vọng và ganh tỵ trong nội tâm mình thì cảnh huống con người mới có thể thay đổi, và niềm ước ao ngày xưa bừng dậy trong chàng: tìm ra được một lối thoát cho tâm linh.Yasodhara là một cô gái rất thông minh.
Nàng hiểu được tâm trạng chồng.
Nàng có đức tin nơi Siddhatta: nàng biết nếu Siddhatta quyết tâm tìm kiếm con đường giải thoát thì chàng sẽ tìm ra.
Nhưng nàng cũng là một cô gái rất thực tế: cuộc tìm kiếm này có thể kéo dài trong nhiều tháng, nhiều năm, trong khi những khổ đau hiện thực vẫn xảy ra hàng ngày trong cuộc sống.
Vì vậy nàng nghĩ phải làm một cái gì ngay trong giờ phút hiện tại.
Và nàng bàn với Siddhatta những phương pháp có thể làm vơi bớt nỗi khổ của những người thiếu may mắn nhất trong vương quốc.
Công việc này nàng đã bắt đầu từ hơn hai năm nay ở các xóm nghèo.
Công việc ấy một mặt có thể thoa dịu bớt khổ đau của một số người, một mặt có thể đem lại chút ít bình an và hạnh phúc cho tự tâm nàng.
Yasodhara tin rằng tình yêu của Siddhatta có thể là lưng tựa vững chãi và lâu dài cho công việc ấy.Từ thủ đô Kapilavatthu, các