Ngày trăng tròn đã tới.Buổi sáng, Bụt khoác cà sa, mang bát, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ đi vào thành Rajagaha, đáp lại lời mời của quốc vương Bimbisara.
Đoàn người đi trang nghiêm và lặng lẽ.
Đường phố mà các vị khất sĩ đi qua đã được treo cờ và kết hoa.
Dân chúng đổ ra hai bên đường chào đón đông nghịt.
Tới một ngã tư, Bụt và giáo đoàn không đi lên được nữa, bởi vì dân chúng đã đổ ra đông quá, làm bít mất con đường.Lúc ấy, khất sĩ Uruvela Kassapa đang đi sát sau lưng Bụt, còn chưa biết làm cách gì để khai thông con đường thì thầy bỗng thấy xuất hiện trước mặt Bụt một chàng thanh niên tuấn tú, tay cầm cây đàn mười sáu dây.
Thanh niên cất tiếng hát, giọng chàng trong sáng và vọng lớn lên như tiếng chuông đồng.
Tay đàn, miệng hát, chàng rẽ đám đông để đi tới.
Quần chúng tránh đường cho chàng đi.
Con đường được mở rộng, lúc ấy Bụt và giáo đoàn mới tiến lên được.Thầy Kassapa nhận ra được tung tích người thanh niên đang mở đường cho Bụt và tăng đoàn bằng âm nhạc và thi ca.
Đó là một chàng thi sĩ đã tới quy y với Bụt cách đây chưa đầy một tháng.
Chàng đang ứng khẩu hát lên những cảm nghĩ của mình.
Chàng hát:Sáng nay trên đất nước, có mùa Xuân thắm tươiGiữa thủ đô ta có bậc giác ngộ tuyệt vờiCùng một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử, người đi vào thành Vương XáBậc điều ngự đang ung dung bước tới, dung quang lặng lẽ mà sáng ngời.Quần chúng nghe chàng một cách say mê.
Mọi người nhìn vào chàng, rồi lại nhìn vào Bụt.
Chàng mỉm cười rồi hát tiếp:Bởi ta có may mắn là học trò của bậc toàn giácHãy cho ta ca ngợi tình thương và trí tuệ không bờ bến của NgườiCho ta ca con đường đưa tới chân trời tự tạiCho ta ca tăng đoàn đang đi trên chánh đạo soi sáng cho đời.Chàng còn hát nữa, cho đến khi Bụt và tăng đoàn tới được cổng hoàng cung.
Lúc ấy chàng mới cúi đầu làm lễ Bụt rồi biến mất trong đám đông.Vua Seniya Bimbisara đích thân ra tận ngọ môn để đón chào Bụt và tăng đoàn.
Các nhân sĩ và tân khách của vua, có tới hàng ngàn người, cũng theo vua ra đón Bụt.
Vua đưa Bụt vào hoàng cung.
Sân rồng đã được che nắng bởi những chiếc rạp dựng lên cho cuộc đón tiếp long trọng này.
Rạp được kết bằng hoa lá rất mỹ lệ.
Chỗ ngồi của Bụt được đặt ở vị trí trung ương.
Chỗ ngồi của một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ cũng đã được chuẩn bị chu đáo.
Sau khi Bụt đã ngồi xuống trên ghế của người, vua Bimbisara thỉnh cầu các vị khất sĩ và toàn thể quan khách an tọa.
Vua ngồi một bên Bụt.
Phía bên kia là khất sĩ Kassapa.Ngôi chủ khách đã phân, thái tử Ajatasattu mang nước và khăn ra cho Bụt rửa tay chân.
Tiếp theo, quân hầu cũng đem nước và khăn ra cho tất cả các vị khất sĩ rửa tay chân.
Lễ tẩy tịnh đã xong, vua đích thân đứng dậy cúng dường các thức ăn cho Bụt.
Vua cung kính sớt các thức ăn vào bát của mỗi người.
Trong khi đó, phu nhân của vua, hoàng hậu Vaidehi, hướng dẫn người hầu trong hoàng cung cúng dường thức ăn cho các vị khất sĩ.Bụt và giáo đoàn khất sĩ mặc niệm và chú nguyện trước khi ăn.
Vua Bimbisara và tất cả các quan khách cũng đều giữ im lặng trong thời gian dùng bữa.
Trong sáu ngàn tân khách của vua, không ai là không cảm nhận được sự thanh tịnh và an lạc thoát ra từ nhân cách của Bụt và của giáo đoàn khất sĩ.Sau khi Bụt, tăng đoàn và quan khách đã thọ trai xong, bình bát của các vị khất sĩ được người hầu đem rửa và trả lại cho mỗi vị.Vua Bimbisara hướng về Bụt, cung kính chắp tay.
Hiểu được ý vua, Bụt lên tiếng dạy về chánh pháp.
Người nói về năm giới như là phương thức tạo dựng và bảo vệ hòa bình và hạnh phúc trong quốc gia.
Người nói năm giới có thể được nhận thức như là những nguyên tắc sống chung hòa bình và an lạc, trong gia đình cũng như ngoài xã hội.Giới thứ nhất là không sát hại.
Giữ gìn giới này là để nuôi dưỡng lòng từ bi.
Tất cả các loài sinh vật, từ người cho đến chim muông và cầm thú, loài nào cũng sợ chết.
Nếu ta biết tôn quý sự sống của ta thì ta cũng phải biết tôn quý sự sống của loài sinh vật khác.
Không những ta không được tiêu diệt sự sống của con người, mà ta còn nên tránh việc tiêu diệt sự sống của các chủng loại khác.
Ta phải sống hòa bình với con người và sống hòa bình với các loài sinh vật khác.
Nuôi dưỡng được lòng thương, ta làm cho cuộc đời bớt khổ và đẹp đẽ thêm lên.
Nếu mọi người trong nước đều biết giữ giới không sát hại thì đất nước sẽ không bị loạn lạc, và dân chúng được sống hòa bình.
Khi mọi người thương nhau và đoàn kết với nhau thì dân giàu và nước mạnh, sẽ không nước nào có đủ sức để xâm lăng nước mình, và tuy có quân đội hùng mạnh, quốc gia sẽ không cần sử dụng đến.
Quân đội sẽ có thì giờ để làm những công việc xây dựng đường xá, cầu cống, chợ búa và đê điều.Giới thứ hai là không xâm phạm đến tài sản của kẻ khác.
Nếu tài sản của mình là do mình tạo ra bằng sức làm việc hàng ngày của mình thì không ai có quyền xâm phạm đến.
Tất cả những lời nói và hành động nào nhằm tước đoạt tài sản ấy đều được xem là phạm giới.
Không được ăn trộm, ăn cướp, lường gạt, hoặc dùng quyền lực mình để cưỡng chiếm tài sản của kẻ khác.
Lợi dụng sự khờ dại, sức lao động của kẻ khác và hoàn cảnh khó khăn của họ để làm giàu cũng phạm vào giới này.
Nếu dân trong một nước mà biết hành trì giới này thì trong nước sẽ có công bằng xã hội và những tội ác như cướp của và giết người sẽ giảm bớt rất mau chóng.Giới thứ ba là không xâm phạm tiết hạnh của kẻ khác.
Ngoài vợ mình hay chồng mình, người giữ giới không được chung chạ với kẻ khác.
Giữ được giới này thì tạo được đức tin và hạnh phúc trong gia đình mình, đồng thời cũng tránh được sự gây ra đổ vỡ khổ đau trong các gia đình khác.
Muốn có hạnh phúc, muốn có thì giờ và tâm não để lo việc ích quốc lợi dân thì nên tránh việc có nhiều tỳ thiếp.Giới thứ tư là không nói dối và không nói những lời gây chia rẽ căm thù.
Lời nói phải phù hợp với sự thật: có thì nói có, không thì nói không.
Lời nói có thể tạo nên niềm tin và hạnh phúc.
Lời nói cũng có thể tạo nên đổ vỡ và sự thù oán, có khi còn đưa tới sự chém giết lẫn nhau.
Có khi lời nói cũng có thể tạo ra chiến tranh.
Ta phải rất cẩn thận cho lắm mới được.Giới thứ năm là không uống rượu và không sử dụng các chất ma túy.
Rượu và các chất ma túy làm cho ta mất sáng suốt.
Khi say ta có thể tạo ra nhiều đổ vỡ cho bản thân, cho gia đình và cho tổ quốc.
Giữ giới này, ta giữ cho thân thể ta được khỏe mạnh và tâm hồn được sáng suốt, vì vậy bậc thức giả luôn luôn phải giữ giới này.
Nếu đại vương và các vị chức sắc của triều đình mà thấu triệtvà vâng giữ được năm giới này thì đó là một điều đại phước cho quốc gia và cho tất cả bàn dân thiên hạ trong vương quốc.Đại vương, bậc quốc vương đứng đầu một nước cần sống trong tỉnh thức và biết được những gì đang xảy ra trong vương quốc mình.
Nếu đại vương làm cho trong triều ngoài quận ai cũng hiểu thấu và thực hành được năm giới, tức là năm nguyên tắc sống hòa bình và an lạc, thì vương quốc Magadha sẽ trở nên vương quốc thịnh vượng nhất trong hoàn vũ.Vua Bimbisara sung sướng tiến tới trước Bụt và làm lễ người.
Hoàng hậu Vaidehi cũng đứng dậy từ chỗ ngồi của bà.
Cầm tay thái tử Ajatasattu, bà đi tới trước Bụt.
Bà dạy thái tử chắp tay thành búp sen để vái chào người, rồi bà nói:– Lạy Bụt, hôm nay có thái tử Ajatasattu, con của con và nhiều trẻ em khác con của các vị vương tử đại thần và quan khách.
Các em đông có tới bốn trăm đứa.
Xin Bụt đem lòng thương xót chỉ bày cho các em con đường của tỉnh thức và của thương yêu.Nói xong hoàng hậu sụp xuống lạy Bụt.
Thái tử Ajatasattu cũng được bà bảo sụp xuống lạy Bụt.
Bụt mỉm cười đưa tay cầm lấy tay thái tử.
Hoàng hậu quay lại làm dấu hiệu.
Tất cả các thiếu nhi có mặt đều được đưa ra trình diện.
Đây toàn là trẻ em nhà quyền quý và khá giả, nên em nào cũng được phục sức rất tươm tất.
Trai cũng như gái đều có đeo vòng ở cổ tay và cổ chân.
Các em gái mặc những chiếc sari lộng lẫy đủ màu trông rất tươi mát.
Thái tử Ajatasattu cũng ngồi xuống ngay dưới chân Bụt.Bụt nhớ lại những em bé nghèo mà người đã gặp dưới cây hồng táo ở ngoại thành Kapilavatthu.
Người tự hứa là mai này về lại quê hương sẽ đi tìm gặp lại những em bé như thế để làm tròn ước nguyện.Người nói:– Này các con, trước khi ta được làm người, ta đã từng làm đất đá, cây cối, chim chóc và muông thú.
Các con cũng vậy, trong những kiếp xưa các con đã từng làm đất đá, cây cối và chim muông.
Ngày hôm nay ta được gặp các con, cũng có thể là vì trong những kiếp xa xưa ta và các con đã từng gặp nhau.
Chúng ta đã có thể làm cho nhau sung sướng.
Chúng ta cũng đã có thể làm cho nhau khổ đau.Hôm nay ta muốn kể cho các con nghe một chuyện đã từng xảy ra hàng ngàn kiếp trước.
Đây là chuyện một con cò, một con cua, một cây bông sứ và rất nhiều tôm cá.
Hồi ấy, ta là cây bông sứ, và trong số các con có thể có đứa đã làm con cò, có đứa có thể đã làm con cua và nhiều đứa có thể đã làm tôm cá.Trong câu chuyện ấy, con cò là một đứa nham hiểm và có tính hay lường gạt.
Nó đã làm cho biết bao nhiêu con khác chết chóc và khổ đau.
Hồi ấy, như các con đã biết, ta làm cây bông sứ.
Con cò cũng đã làm cho ta khổ đau, nhưng ta đã học được một bài học.Đó là: khi mình lường gạt và làm khổ đau kẻ khác thì mình cũng sẽ bị lường gạt và sẽ bị khổ đau trở lại.Trong kiếp xa xưa đó, ta làm cây bông sứ đứng gần một cái hồ sen rất thơm và rất mát.
Hồ sen này lại không có cá.Cách hồ không xa, lại có một cái ao nhỏ hẹp, ít nước và nóng bức, nhưng lại có nhiều tôm cá.
Một con cò đi ngang qua đây thấy tôm cá quá nhiều mới nảy sinh ra một mưu kế.
Nó tới đứng gần bên bờ hồ và tự tạo cho mình một vẻ mặt đăm chiêu.Bọn cá hỏi:– Bác Cò, bác suy nghĩ gì đấy?– Ta đang suy nghĩ đến số phận của các chú.
Ở đây ao hẹp, nước ít lại nóng bức.
Các chú lại thiếu thức ăn.
Đời sống của các chú có vẻ khổ cực, ta thương lắm.– Vậy bác có cách gì giúp tụi cháu không, bác Cò?– Nếu tụi bay để ta chở từng đứa tới bỏ xuống cái hồ sen đàng kia, thì ở đó tụi bay sẽ được tha hồ bơi lội trong nước mát và sẽ có vô số thức ăn.– Bác Cò ơi, tự thuở cha mẹ sinh ra, chúng cháu chưa bao giờ nghe nói là loài cò mà lại có lòng