Tuy chưa bị Bụt gọi riêng để quở trách lần nào, thầy Svastika vẫn biết rằng mình còn có rất nhiều khiếm khuyết trong nếp sống phạm hạnh và thầy cũng biết rằng Bụt thấy hết những khiếm khuyết ấy.
Nếu Bụt không rầy hoặc chưa rầy có lẽ là vì Bụt thấy thầy có để tâm hộ trì sáu căn, tuy sự hộ trì này chưa được nghiêm mật.Mỗi lần thấy vị khất sĩ hay nữ khất sĩ nào bị quở trách, Svastika thường xem như chính mình bị quở trách, vì vậy thầy có nhiều cơ hội để tập thúc liễm thân tâm.
Nhất là mỗi khi thầy Rahula được Bụt gọi lại giáo hóa là thầy Svastika xem như chính mình được Bụt gọi.
Thầy Rahula đã bước những bước thật vững chãi trên con đường tiến tu phạm hạnh và điều này là một trợ duyên cho sự tu học của thầy Svastika.Có một lần thầy Svastika ngồi tâm sự với thầy Rahula trong một cụm rừng về sự may mắn được xuất gia theo Bụt của mình.
Thầy nói thầy đã được nếm hương vị tịnh lạc và giải thoát rồi thì không còn thấy nếp sống ngoài thế gian là vui thích nữa.
Thầy Rahula bảo:– Tuy vậy mình không nên vội quá tin nơi mình.
Công trình hộ trì sáu căn là công trình căn bản của nếp sống phạm hạnh và ngay các vị lớn trong giáo đoàn khất sĩ cũng vẫn không dám khinh thường công phu thực tập này.Rồi thầy kể cho thầy Svastika nghe về thầy Vangisa.
Thầy Vangisa nổi tiếng là một vị khất sĩ vừa có biện tài vừa có khiếu văn chương.
Thầy đích thực là một thi sĩ, thầy đã làm nhiều bài thi kệ ca ngợi Bụt, Pháp và Tăng.
Thầy đã từng đọc thơ của thầy cho Bụt nghe và Bụt đã ngỏ lời khen ngợi.Hồi mới xuất gia, thầy Vangisa được theo học với thầy Nigrodhakappa và y chỉ nơi thầy.
Hai thầy trò cư trú tại đền Aggalava miền ngoại ô thành Savatthi.
Sau đó trưởng lão Nigrodhakappa tịch, thầy được về tu viện Cấp Cô Độc.Một hôm đi khất thực với thầy Ananda, thầy Vangisa thú thật với thầy Ananda rằng tâm thầy không được an tịnh và thầy khẩn cầu thầy Ananda hóa giải giùm.
Hỏi ra, thầy Ananda biết được rằng tâm của thầy Vangisa còn đang xao xuyến vì nhan sắc của một số các vị tiểu thư thường đến cúng dường tại tu viện.
Thầy Ananda hiểu rằng thầy Vangisa là một nghệ sĩ, tâm hồn dễ rung động bởi những cái đẹp và vì vậy thầy Ananda đã lấy cái sắc đẹp của chính giáo pháp và của giác ngộ để giúp thầy Vangisa vượt thoát cái đẹp mong manh, vô thường và có thể gây tai họa của nữ sắc.
Thầy đã dạy thầy Vangisa chiếu rọi ánh sáng vào đối tượng quán niệm để thấy tính cách bất tịnh và chóng tàn hoại của các pháp.
Thầy Vangisa đã thực tập theo lời giáo huấn của thầy Ananda, đã thực tập hộ trì sáu căn và đã làm một bài thi kệ tự tính mà nhiều thầy biết đến.
Bài kệ ấy như sau:Đã khoác áo cà sa,Tham dục còn đuổi theoNhư trâu nhớ lúa ngườiQuả thật là hổ thẹn!Con của nhà đại tướngTài giỏi nghề cung tênNgàn người bắn tứ phíaVẫn phá được vòng vâyNay giai nhân có đến,Đông hơn là quân tràn,An trú nơi chánh phápTa quyết cũng không sờnTa đã theo Thế TônCủa dòng họ Mặt TrờiTrên đường về thong dongTình ta đã trọn gởiDo hộ trì sáu cănTa ung dung tiến bướcNão phiền vô lượngNào lay chuyển được ta?Thầy Vangisa là người thông minh và tài giỏi, vì vậy đã có lần vướng vào tâm trạng tự hào và âm thầm có ý khinh miệt một số các thầy khác, nhưng may mắn thay, nhờ tu tập chánh niệm, thầy đã thấy được niềm kiêu mạn khởi ra trong tâm thầy, và thầy bất giác cảm thấy hổ thẹn.
Thầy đã làm ra bài kệ sau đây để tự tỉnh:Đệ tử Gotama,Hãy đoạn trừ kiêu mạn!Con đường kiêu mạn nàyChỉ đưa về khổ thủ!Kẻ kiêu mạn ngấm ngầmCũng đi về địa ngụcHuống chi là những kẻVênh váo nhìn cuộc đời!Học đạo thấy đường ngay,Tâm hồn được an lạcNiềm vui đó rất caoTa phải mong đạt tớiHãy tập phép chánh niệmĐể đạt phép tam minh,Kiêu mạn đoạn trừ xongMới thành công thật sự.Nhờ có cảnh giác cao cho nên thầy Vangisa đã vượt được rất nhiều chướng ngại và đã bước những bước thật lớn trên con đường chuyển hóa.
Thầy đã đạt tới quả vị Bất Sinh, và điều này đã được trưởng lão Sariputta xác nhận.
Ngày tâm tư bừng mở, thầy Vangisa đã làm một bài thi kệ để tỏ lòng biết ơn Bụt.
Bài thi kệ ấy như sau:Ngày xưa say thơ mộngTa phiêu bồng khắp nơiCảnh chợ rồi cảnh quêCuối cùng được gặp Bụt!Thế Tôn đã thương xótDạy cho ta phép mầuNghe xong khởi niềm tinKhoác áo người khất sĩAn trú trong chánh phápKiên cố ta một lòngNay chứng được tam minhĐền ơn bậc tỉnh thứcHạt giống của mặt trờiThế Tôn đã gieo rắcVì chúng sanh u tốiNgười khai mở lối raBốn sự thật nhiệm mầuCon đường tám nẻo chánhAn lạc và tự doNghĩa lời cùng vi diệuPhạm hạnh đã cao siêuĐộ sinh càng khéo léoNiết bàn cứu muôn loàiƠn sâu người chỉ dạy!Thầy Sariputta trong một buổi giảng cho các vị khất sĩ trẻ có đem trường hợp của thầy Vangisa ra để làm gương.
Thầy bảo: Thầy Vangisa trong bước đầu tu học cũng đã từng có những tình cảm và những tâm trạng yếu đuối, nhưng sau đó nhờ tu học tinh chuyên đã vượt thắng được mọi phiền não và chứng ngộ được diệu pháp.
Biết vậy, người tu không nên có mặc cảm, dù là mặc cảm tự tôn hay là mặc cảm tự ti.
Tu tập chánh niệm, ta sẽ ý thức được những gì đang xảy ra trong nội tâm và ta sẽ không bị lôi cuốn theo những gì đang xảy ra.
Hộ trì sáu căn vì vậy là phương pháp rất mầu nhiệm để vững tiến trên đường đạo.Nghe thầy Rahula kể về thầy Vangisa, thầy Svastika hình dung lại được vị khất sĩ tài hoa này.
Tuy thầy đã từng được gặp thầy Vangisa nhưng chưa bao giờ có dịp trò chuyện.
Thầy định bụng hôm nào sẽ xin đến làm quen và học hỏi kinh nghiệm tu đạo của thầy Vangisa.
Thầy nhớ có một hôm Bụt dùng hình ảnh về biển cả để dạy đại chúng về công phu hộ trì sáu căn.
Người nói:– Này các vị khất sĩ, mắt là một đại dương sâu, trong ấy có đầy những loài thủy quái, có đầy những con nước xoáy và những đợt sóng ngầm rất nguy hiểm.
Nếu không đi trong chánh niệm, chiếc thuyền của quý vị sẽ bị những loài thủy quái, những con nước xoáy và những đợt sóng ngầm ấy làm cho đắm chìm trong biển sắc.
Tai, mũi, lưỡi, thân và ý của quý vị cũng là những đại dương sâu, trong ấy có đầy những loài thủy quái…Nhớ tới những lời dạy ấy của Bụt, thầy Svastika thấy sâu sắc vô cùng.
Quả thật sáu giác quan của thầy là những đại dương sâu, và những đợt sóng ngầm có thể nổi dậy bất cứ lúc nào và làm cho thầy chìm đắm.
Thầy Rahula nói rất phải: thầy rất không nên khinh thường và phải thực tập rất nghiêm chỉnh lời Bụt dạy.Câu chuyện về con chim Cút mà Bụt kể cho các thầy khất sĩ trẻ nghe trước túp lều của người tại tu viện Jetavana là một câu chuyện thật dễ nhớ.
Câu chuyện này cũng có mục đích nhắc nhở các thầy giữ gìn sáu căn và đừng buông thả tự thân trong lĩnh vực của thất niệm.Bụt kể: Một hôm nọ có một con chim Ưng thình lình đáp xuống và chụp lấy một con chim Cút rồi bay vút lên cao.
Con chim Cút than khóc, tự trách là mình đã đi ra khỏi vùng mà cha mẹ nó bảo không nên ra khỏi cho nên mới bị tai nạn.
“Nếu ta biết nghe lời cha mẹ ta thì con chim Ưng này có làm gì được ta”.
Nghe con chim Cút nói thế, chim Ưng hỏi: “Vậy vùng mà cha mẹ mầy bảo mầy đừng ra khỏi là vùng nào?” Chim Cút trả lời: “Đó là vạt đất mới được cày”.
Chim Ưng lấy làm lạ, bèn mang con chim Cút ra trả về chỗ cũ.
Trước khi bay đi, chim Ưng nói: “Này Cút, ta đã thả mầy ra, mầy hãy liệu chừng, ta chỉ thả mầy lần này thôi.
Lần sau nếu bắt được mầy, ta sẽ không thả đâu”.Chim Cút trở về vạt đất đã được cày, leo lên đứng trên một hòn đất lớn và thách thức chim Ưng: “Này chim Ưng, mầy hãy xuống đây, xuống đây xem có thể bắt được ta hay không?”.Chim Ưng nổi giận, xếp hai cánh vào mình, lao vút xuống với tất cả sức lực của nó.
Chim Cút biết thế nên lập tức chui xuống núp dưới hòn đất.
Chim Ưng đã bắt không được chim Cút mà còn va vào hòn đất thật mạnh đến nỗi bị bể ngực và quay ra giẫy chết.
Này các vị khất sĩ, người tu hành phải an trú trong chánh niệm, hộ trì sáu căn cho nghiêm chỉnh, rời khỏi lãnh vực chánh niệm tức là đi vào lãnh thổ của ma vương, thế nào cũng bị tai nạn.Thầy Svastika nhận thấy trong giáo đoàn của Bụt có nhiềuvị khất sĩ trẻ tuổi có đạo hạnh và tài năng.
Điều này làm cho thầy phấn khởi.
Có một hôm thầy được tháp tùng một số các thượng tọa tới dự lễ trai tăng ở tư thất cư sĩ Citta tại thị trấn Macchikasanda và đã khám phá ra sự có mặt im lặng của một vị khất sĩ trẻ tuổi như thế.
Cư sĩ Citta là người nổi tiếng tinh thâm giáo lý.
Ông là một vị đệ tử cư sĩ có đạo tâm và cũng được quần chúng ái mộ gần như cư sĩ Anathapindika.
Ông thường hay thỉnh các vị cao đức tới nhà để cúng dường trai phạn và để được học hỏi.
Hôm ấy có trên mười vị khất sĩ cao niên được mời.
Chỉ có Svastika và một vị khất sĩ khác tên là Isidatta là hai người trẻ tuổi.
Sau khi cúng dường trai phạn, cư sĩ Citta đứng ra đảnh lễ các vị tôn túc, xin phép ngồi xuống một chiếc ghế thấp trước mặt các vị xuất gia và đặt câu hỏi sau đây:– Kính bạch các vị tôn túc, con đã được nghe kinh Bramajala, trong đó Bụt nói về sáu mươi hai luận chấp của các học phái đương thời.
Con cũng có nghe những câu hỏi về sinh diệt và về linh hồn mà các đạo sĩ thường nêu ra như: thế giới là hữu biên hay vô biên, vĩnh cửu hay phải đoạn diệt, linh hồn và thân xác là một hay là khác, Như Lai có còn không sau khi nhập diệt, hay là vừa còn vừa không còn, hoặc không còn cũng không không còn… Bạch các vị tôn đức, do đâu mà có những luận chấp và những câu hỏi có tính cách siêu hình ấy?Trước câu hỏi của cư sĩ Citta, tất cả các vị khất sĩ đều nín thinh, Citta lặp lại câu hỏi này tới ba lần mà cũng không có vị khất sĩ nào lên tiếng để trả lời cả.
Thầy Svastika cảm thấy bối rối, và cảm thấy nóng bên hai tai.
Đột nhiên thầy Isidatta lên tiếng, hướng về phía các vị trưởng lão, thầy hỏi:– Kính bạch các vị trưởng thượng, con có thể trả lời câu hỏi đó của cư sĩ Citta được không?Các vị khất sĩ lớn trả lời:– Khất sĩ, ông có thể trả lời nếu ông muốn.Hướng về cư sĩ Citta, thầy Isidatta nói:– Này cư sĩ, sở dĩ có những luận chấp và những câu hỏiấy vì người ta còn mắc kẹt vào ngã kiến.
Nếu ngã kiến không còn, người ta sẽ không hỏi những câu hỏi như thế và không chủ trương những luận chấp như thế.Cư sĩ Citta lộ vẻ ngạc nhiên và thán phục, song ông lại nói:– Xin đại đức vui lòng cắt nghĩa cho rõ thêm.– Người không được gần gũi các bậc thiện nhân, không được học hỏi giáo pháp giác ngộ, thường cho rằng thân thể này là ta, hoặc thân thể này là của ta, hoặc có ta trong thân thể này, và có thân thể này trong ta… Người ấy lại cho rằng cảm thọ là ta, là sở hữu của ta, hoặc có ta trong cảm thọ này và có cảm thọ này trong ta… Người ấy cũng có cùng một kiến chấp ấy đối với tri giác, tâm hành và nhận thức.
Đó là người đang bị kẹt vào ngã kiến, chính vì bị kẹt vào ngã kiến như thế nên mới chủ trương và tin vào những luận chấp như sáu mươi hai luận chấp trong kinh Phạm Võng, và mới hỏi những câu hỏi như những câu hỏi về hữu biên và vô biên, thường và đoạn, một và khác, còn hay là không còn.
Cư sĩ Citta, nếu học hỏi và tu tập để phá trừ được ngã kiến thì những câu hỏi và những luận chấp kia sẽ tự động trở thành vô nghĩa.Cư sĩ hoàn toàn bị thầy Isidatta chinh phục.
Ông kính cẩn hỏi:– Bạch đại đức, ngài từ đâu tới?– Cư sĩ Citta, tôi tới từ Avanti.– Bạch đại đức, tôi nghe nói ở Avanti có một người trẻ tuổi tên là Isidatta đã xuất gia.
Đó là một thiếu niên anh tuấn, lỗi lạc phi thường, một người mà chúng tôi nghe tên mà chưa bao giờ từng được gặp.
Chẳng hay đại đức có gặp ông ta hay không?– Cư sĩ Citta, tôi đã có gặp ông ấy.– Vậy thưa đại đức, vị khất sĩ tài đức ấy hiện bây giờ ở đâu?Đại đức Isidatta im lặng.Cư sĩ Citta vốn người thông minh.
Ông ngờ rằng vị đại đức đang ngồi trước mặt mình là Isidatta.
Ông hỏi:– Có phải đại đức chính là đại đức Isidatta đó không?– Thưa phải, thầy Isidatta trả lời.Cư