Mùa an cư chấm dứt, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ còn chưa kịp lên đường hành hóa thì nghe chiến tranh bùng nổ giữa hai vương quốc Kosala và Magadha.
Đại binh của nước Magadha đã vượt sông Hằng đi vào xứ Kasi, thuộc lãnh thổ Kosala.
Quốc vương Ajatasattu Videhyputta tự tay thống lãnh binh tướng qua chinh phạt nước Kosala.
Tướng lãnh thống suốt cả voi, ngựa, xe và pháo, đang hướng về phía thành Baranasi, thủ phủ xứ Kasi.Bên phía vương quốc Kosala sau khi được thám tử thông báo, cũng đã chuẩn bị quân đội gồm đủ voi, ngựa, xe và pháo nhắm xứ Kasi tiến tới.
Việc binh quá cấp thúc, vua không kịp đến thông báo và từ giã Bụt, vua nhờ thái tử Jeta tới trình mọi sự với Bụt thay vua.Bụt đã từng được thông báo rằng sau khi nghe tin Ajatasattu mưu sát cha để lên ngôi, quốc vương Pasenadi đã tỏ ý phản kháng bằng cách lấy lại lãnh thổ của thục ấp vùng Baranasi mà ngày xưa thượng hoàng đã tặng cho vua Bimbisara như vật hồi môn của công chúa Kosaladevi, khi công chúa về nhà chồng.
Thục ấp này từ gần bảy mươi năm nay đã đem lại cho vương quốc Magadha mỗi năm một số tiền thuế trị giá một trăm ngàn đồng vàng.
Vua Ajatasattu không chịu đựng được hành động phản kháng này cho nên đã cất binh sang đánh.Đại đức Sariputta thông báo cho các vị nam nữ khất sĩ ở đâu thì nên hành đạo ngay tại đó, đừng di chuyển nhiều trong thời buổi chiến tranh.
Đại đức cũng xin Bụt ở lại Savatthi cho đến khi tình hình yên tĩnh.Hai tháng sau dân chúng kinh hoàng nghe tin binh tướng Kosala đã thất trận tại Kasi.
Vua Pasenadi và các tướng phải rút tàn binh chạy về kinh đô.
Tình hình rất khẩn trương.
May thay, hệ thống phòng thủ tại Savatthi rất là kiên cố.
Binh tướng của vua Ajatasattu đã đuổi theo và công kích ngày đêm mà cũng không hạ được nổi thành.Sau đó, nhờ kế hoạch của tướng Bandhula, vua Pasenadi phối hợp được quân trong thành và quân từ các địa phương kéo tới để mở một cuộc tổng phản công.
Lần này vua thắng lớn, vua Ajatasattu cùng các vị tướng soái dưới quyền đều bị bắt sống.
Quân Kosala bắt được trên một vạn tù binh.
Số binh lính còn lại, hoặc chết hoặc bỏ chạy tán loạn, có đến trên một vạn.
Ngoài ra, quân đội Kosala lại chiếm được rất nhiều voi, ngựa, xe và pháo của bên địch.Chiến tranh đã kéo dài hơn sáu tháng, dân chúng Savatthi được lệnh tổ chức và ăn mừng thắng trận.Sau khi thu xếp công việc triều đình và binh đội, vua Pasenadi đến thăm Bụt tại tu viện Trúc Lâm.Vua kể cho Bụt nghe những gian nan của cuộc chiến.
Vua nói rằng quốc vương Ajatasattu đã tỏ ý gây hấn; vua chỉ chiến đấu tự vệ thôi chứ không hề chịu trách nhiệm về việc châm lửa chiến tranh.
Vua trình với Bụt là có lẽ quốc vương Ajatasattu đã nghe lời những vị mưu thần nhiều quá.– Bạch Thế Tôn, quốc vương Magadha dù sao cũng là cháu của trẫm, trẫm không nỡ giết, cũng không nỡ bỏ nó vào chốn lao tù, xin Bụt chỉ dạy cho trẫm.Bụt nói:– Đại vương, xung quanh đại vương có biết bao nhiêu người thần tử và bạn hữu trung thành.
Đại vương thắng trận này không có gì là lạ, nhưng xung quanh quốc vương Ajatasattu có nhiều phần tử xấu, và vì vậy vua ấy đã đi lầm đường lạc nẻo.
Như Lai xin đề nghị là đại vương nên lấy lý lẽ để tiếp đãi quốc vương Magadha cho đúng cung cách của một ông vua đối xử với một ông vua, nhưng đại vương cũng phải có thì giờ để dạy quốc vương Magadha như dạy một người cháu ruột.
Đại vương hãy nhấn mạnh đến sự cần thiết của những người bạn hữu tốt và những kẻ thần tử trung kiên, và cuối cùng đại vương có thể đặt tiệc và đưa vua xứ Magadha về nước, nền an bình của trăm họ tùy thuộc nơi sự khéo léo của đại vương.Rồi Bụt cho gọi một vị khất sĩ trẻ tên là Silavat lên và giới thiệu vị này với vua Pasenadi.
Khất sĩ Silavat vốn là một vị thái tử, con vua Bimbisara, em cùng cha nhưng khác mẹ với vua Ajatasattu.
Silavat là một người con trai khá thông tuệ; từ mười sáu tuổi, chàng dã được theo học với đại đức Moggallana và đã là một người đệ tử tại gia xuất sắc của đại đức.Sau cuộc chính biến xảy ra tại thủ đô Rajagaha, chàng đã xin đại đức cho chàng xuất gia.
Sau lễ xuất gia, khất sĩ Silavat đã được gởi về tu viện Jetavana ở thủ đô Savatthi để tu học.
Đại đức Moggallana nghĩ rằng dù Silavat không có ý tranh giành quyền hành với vua Ajatasattu, nhưng gởi vị khất sĩ này qua tu học ở nước Kosala vẫn là có an ninh hơn.Vua Pasenadi hỏi thăm đại đức Silavat về tình trạng hoàng gia bên Rajagaha và thầy đã cung kính nói hết cho vua nghe tất cả những gì thầy tai nghe mắt thấy.Đại đức cho vua biết là năm ngoái đã có một người từ thủ đô xứ Magadha tới với sứ mạng ám sát đại đức, nhưng đại đức đã cải hóa được người ấy và độ cho người ấy được xuất gia.
Hiện vị khất sĩ kia đang được tu học ở một trung tâm không xa thành phố.Quốc vương Pasenadi cung kính lạy tạ Bụt và trở về cung điện.Vua Ajatasattu sau đó được trả tự do và đưa về nước.
Lấy tình thương để xóa bỏ hận thù, vua Pasenadi lại đem công chúa Vajira mà gả cho vua Ajatasattu nữa.
Quốc vương Ajatasattu đã là cháu nay lại trở nên con rể của vua.
Vua còn hứa sẽ trả lại thục ấp ở Baranasi mà ngày xưa thượng hoàng Maha Kosala đã tặng cho xứ Magadha.
Quốc vướng xứ Kosala đã nghe lời Bụt một cách đúng mức.Chiến tranh đã kết thúc, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ lại được phép lên đường hoằng hóa.Vua Pasenadi truyền xây dựng một tu viện mới cho giáo đoàn khất sĩ tại ven thủ đô.
Tu viện này lấy tên là Rajakarama.Bụt ở lại vương quốc Kosala liên tiếp trong hai năm, an cư mùa mưa tại tu viện Jetavana và đi giáo hóa ở nội địa trong những thời gian còn lại.
Thỉnh thoảng có tin tức từ vương quốc Magadha do các vị khất sĩ du hành đem về cho Bụt.
Các vị ấy kể sau khi Bụt rời vương quốc, đại đức Devadatta không còn được vua Ajatasattu kính nể nữa.Trong số hơn một trăm vị khất sĩ còn ở lại với đại đức, tám mươi vị đã bỏ đại đức để trở về với giáo đoàn của Bụt và đều được đón nhận trở lại tại tu viện Trúc Lâm.
Đại đức càng ngày càng bị cô lập.
Gần đây đại đức bị ốm nằm liệt trên núi Gayasisa, không đi đâu được cả.Từ ngày chấm dứt chiến tranh giữa hai nước Kosala và Magadha, vua Ajatasattu cũng không còn gặp gỡ đại đức Devadatta.
Vua cũng không có liên lạc nào với giáo đoàn khất sĩ của Bụt.
Vua chỉ thân cận với các vị lãnh đạo của những giáo phái khác.Tuy vậy giáo đoàn khất sĩ vẫn được tiếp tục hành đạo một cách yên ổn.
Dân chúng cũng như các vị khất sĩ rất mong ước được Bụt trở về.
Núi Linh Thứu và tu viện Trúc Lâm vẫn còn chờ đợi Bụt.
Y sĩ Jivaka cũng rất tha thiết mong Bụt trở về.Mùa lạnh năm ấy hoàng hậu Mallika băng.
Vua Pasenadi buồn quá, tìm tới Bụt để được an ủi.
Hoàng hậu là một người bạn đời rất xứng đáng của vua và đã được vua thương yêu hết lòng.
Hoàng hậu là một người theo Bụt thuần kính, thông minh, sáng suốt, thông hiểu giáo pháp một cách sâu xa.
Ngay trước khi vua được gặp Bụt và tin Bụt, bà đã khuyên vua hành động cho phù hợp chánh pháp.
Có lần vì nằm mộng thấy những điều quái gở, vua Pasenadi nghĩ rằng sẽ có những việc rủi ro xảy đến cho mình.
Tin vào các vị Bà la môn và đạo sĩ ngoại đạo, vua đã cho chuẩn bị tổ chức tế đàn, sát hại trâu bò để cầu thần linh phù hộ.
Chính hoàng hậu đã can gián vua, thuyết phục vua hủy bỏ dự án thiết lập tế đàn.
Hoàng hậu còn tham dự và bàn bạc về cả chính sự và soi sáng cho vua rất nhiều trong lúc vua đi tìm những quyết định có liên hệ tới vận mạng của đất nước.
Hoàng hậu là một trong những nữ đệ tử tại gia xuất sắc của Bụt.
Bà rất ham học hỏi về giáo lý.
Bà có thành lập một công viên với một hàng rào cây tinduka bao quanh, có hội trường để tham cứu về giáo pháp.
Bà đã có mời Bụt và các cao đức tới hội trường này để thuyết pháp và hướng dẫn những cuộc thảo luận.
Công viên này cũng mở cửa cho những vị lãnh đạo các giáo phái khác.Đau khổ vì bị mất người bạn đời đã bốn mươi mấy năm sống chung, vua tìm đến Bụt.
Ngồi yên lặng thật lâu bên Bụt, vua cảm thấy tâm hồn an tịnh trở lại.
Vua nghe lời Bụt để thêm thì giờ vào việc tu tập thiền quán.
Bụt nhắc lại lời vua nói trước đây là khi tuổi về già, mình phải tinh cần sống đúng theo chánh pháp và tạo hạnh phúc cho mọi người.
Bụt khuyên vua tìm cách cải thiện guồng máy tư pháp và kinh tế.Người nói những hình phạt như đánh đập, tra tấn, giam cầm và tử hình không phải là biện pháp có hiệu lực nhất để ngăn chận trộm cướp.
Gặp thời đói kém và loạn lạc, những vụ trộm cướp và bạo động tự nhiên tăng lên bội phần, vì vậy chánh sách an dân và giúp dân xây dựng lại kinh tế là chánh sách căn bản.Những biện pháp cần làm là cấp thực phẩm, lúa giống và phân bón cho nông dân nghèo để họ có thể sinh sống và sản xuất, cấp vốn cho nhà buôn, tăng lương bổng cho công tư chức, miễn thuế cho dân nghèo, phế bỏ phương pháp đe dọa, bắt buộc và đàn áp người lao công, cho họ chọn làm những nghề mà họ thật sự ưa thích, tạo cơ hội và phương tiện cho họ được hành những nghề ấy.
Bụt nói chánh sách kinh tế phải là một chánh sách tự nguyện.Những lời dạy về chính trị này, nhờ ngồi bên Bụt, hôm ấy đại đức Ananda đã được nghe.Đại đức đã trùng tuyên lại những ý này trong kinh Kutadanta.Một buổi chiều tại tu viện Lộc Mẫu, đại đức Ananda thấy Bụt xoay lưng về phía mặt trời, đại đức không hiểu tại sao, bởi vì Thế Tôn thường ưa nhìn cảnh mặt trời khuất bóng, đại đức tới gần và hỏi Bụt.Bụt nói Bụt đứng như thế để cho ánh sáng mặt trời sưởi ấm lưng người.
Đại đức lấy tay xoa lưng Bụt một hồi lâu cho ấm, rồi đại đức mời Bụt ngồi xuống ghế tre và xoa bóp hai chân cho Bụt.Vừa xoa bóp, đại đức vừa nói:– Thế Tôn, con đã được làm thị giả cho Thế Tôn mười lăm năm nay, con nhớ những năm trước, nước da của người còn vàng ánh và óng mướt, nay da Thế Tôn đã nhăn và những bắp thịt nơi chân Thế Tôn đã teo lại rất nhiều, những lóng xương lộ ra rất rõ.Bụt cười:– Sống lâu thì già, có sao đâu Ananda! Mắt và tai của Như Lai cũng không còn được tinh nhuệ như trước.
Ananda! Thầy có nhớ núi Thứu và những khóm tre ở tu viện Trúc Lâm không? Thầy có muốn về leo lên núi Thứu để nhìn cảnh mặt trời khuất bóng không?– Lạy Bụt, nếu Bụt muốn về Linh Thứu, con xin đi theo hầu người.Mùa nóng năm ấy Bụt lên đường trở về thủ đô nước Magadha.
Người đi thong thả: lộ trình được chia ra nhiều chặng.
Người ghé thăm những trung tâm tu học, dạy dỗ giới xuất gia, thuyết pháp và nhắc nhở giới tại gia.
Người đi qua nội địa các vương quốc Sakya, Malla, Videha, Vajji, và cuối cùng vượt sông Hằng qua nước Magadha.
Trước khi về thủ đô, người ghé thăm trung tâm tu học tại Nalanda.Tu viện Trúc Lâm và núi Linh Thứu vui như ngày hội khi Bụt về tới.
Dân chúng thủ đô và các miền lân cận đổ xô về thăm Bụt rất đông.
Cả một tháng sau khi Bụt về tới, y sĩ Jivaka mới có dịp mời được Bụt về vườn xoài của ông.
Tại vườn xoài xanh mát này, y sĩ đã dựng được một giảng đường lớn đủ chỗ cho Bụt nói chuyện với khoảng một ngàn vị khất sĩ.Ngồi trước tịnh thất của người tại vườn xoài, Bụt nghe Jivaka kể lại những chuyện đã xảy ra trong triều đình và vương quốc.
Ông nói hiện thái hậu Videhi đã tìm lại được nếp sống an tĩnh.
Bà ăn chay, tập thiền, quán niệm về Tam Bảo một cách thường xuyên.Vua Ajatasattu đang bị khủng hoảng tâm lý trầm trọng, bị ám ảnh bởi cái chết của thượng hoàng, bị lương tâm cắn rứt ngày đêm, vua sinh ra mất ngủ.
Thần kinh của vua suy nhược; vua hay mất bình tĩnh và thường nằm mơ thấy những ác mộng, tỉnh dậy mồ hôi tháo chảy dầm dìa.
Y sĩ đã đến chữa trị cho vua gần nửa năm nay, nhưng tâm bệnh của vua vẫn còn là nguồn gốc của nhiều biến chứng khác.Vua đã vời những vị đạo sĩ thuộc các giáo phái tới để tham vấn và chữa trị tâm bệnh cho vua, nhưng không có vị nào đã giúp được gì.
Những vị này thuộc về các giáo phái Makkali Gosala, Ajita Kosakambali, Pakudha Kaccayana, Nigantha Nataputta và cả Sanjaya Belatthiputa nữa.
Vị nào cũng muốn làm vừa lòng vua để giáo phái mình được thừa hưởng ân huệ nhưng không vị nào thành công.Có một hôm, vua vời thái hậu vào ăn cơm chung với hoàng hậu và thái tử Udayibhadda.
Thái tử Udayibhadda chưa đầy ba tuổi, nhưng tính tình đã khó khăn và không điềm đạm chút nào.
Vua thương yêu thái tử rất mực, thái tử đòi gì được nấy.
Hôm đó thái tử đòi đem con chó vào bàn ăn chung.
Đây là một điều cấm kỵ, nhưng vì chìu con, vua đã cho phép thái tử đem chó vào.
Trong bữa ăn, hơi ngượng với thái hậu, vua nói:– Đem chó vào bàn ăn thật không dễ chịu tí nào.Thái hậu nói:– Con thương con của con, cho nên con để nó đem chó vào ngồi chung, điều này có gì là lạ.
Con nhớ ngày xưa cha con vì thương con mà hút máu mủ trong tay của con không?– Con không nhớ, xin thái hậu kể lại cho con nghe.– Một hôm, ngón tay trỏ của con bị đau và sưng vù lên.
Một cái nhọt đã mọc ngay dưới móng tay, làm nhức nhối khiến con khóc suốt ngày đêm.
Không có đêm nào con ngủ được, cha và mẹ của con cũng không tài nào nhắm mắt.
Cha con ẵm con để lên đầu gối, ngậm ngón tay đau của con trong miệng để chuyền hơi ấm qua, một mặt để con đỡ đau, một mặt để cái nhọt nhờ sức ấm mà cương mủ sớm.
Như thế trong suốt bốn ngày đêm, khi cái nhọt đã cương mủ, và mủ đã chín, cha con mới bắt đầu mút cho mủ thoát ra khỏi ngón tay.
Nhờ vậy mà con lành bệnh, cha con mút hết mủ và máu độc rồi, nhưng không dám rút tay con ra sợ con bị rát.
Cha con cứ giữ mủ và máu trong miệng như thế cho đến khi không chịu nổi thì cha con nuốt máu và mủ cho con đỡ rát.
Mẹ nói như vậy để con biết ngày xưa cha con thương con như thế nào.
Bây giờ con thương con của con, cho nó đem chó vào bàn ăn, điều đó mẹ hiểu, mẹ có trách gì con đâu.Nghe thái hậu kể, vua ôm đầu chạy vào cung, bỏ cả bữa ăn.
Từ đó tâm bệnh càng ngày càng nặng.Jivaka tới chữa trị cho vua, nghe vua kể đủ mọi thứ chuyện, kể cả chuyện tham vấn với các vị Bà la môn và đạo sĩ, nhưng Jivaka vẫn không nói gì.
Vua hỏi:– Jivaka, tại sao anh không nói gì hết?Jivaka tâu:– Tôi chỉ muốn nói với bệ hạ một điều mà thôi, tôi nghĩ chỉ có sa môn Gotama mới giúp được bệ hạ cởi bỏ được những khổ đau