Nhìn lại thì thấy Hi Lam đang phe phẩy quạt lông đứng ở vách đá, trên đầu đội khăn vấn đầu, chân mang giày vểnh đầu, nhìn có vẻ khá đẹp trai, ánh mắt cũng trong sáng đến mức không cho phép nghi ngờ như dòng suối lượn lờ.
Kha Thư Hàn nói: "Sao Bùi nương tử lại nói vậy?"
"Đánh lâu binh sĩ mệt mỏi là chuyện đương nhiên, Nguyên soái băn khoăn cũng dễ hiểu, nhưng theo lý thì An Lộc Sơn mới là người cần phải lo lắng nhiều hơn."
"Sao có thể khẳng định như vậy?"
"Phản quân xuất phát từ Phạm Dương, đi đường xa đến đây, binh quý thần tốc, lương thảo và nhân tâm cũng không chịu được sự giày vò hao mòn như thế.
Phản quân của An Lộc Sơn có hơn một nửa là quân nhà Đường, hiện nay bọn họ nối giáo cho giặc, thời gian kéo dài càng lâu thì lòng quân lại càng bất ổn, rất dễ bị kích động đến mức xảy ra nội loạn." Nói đến đây, Hi Lam dùng quạt lông chỉ về phía Thiểm quận, "Nếu Nguyên soái là phản quân, liệu sẽ để quân đội yếu ớt của mình lộ ra ở nơi như thế hay sao?"
"Sẽ không."
"Hi Lam chắc chắn, đây chính là kế phục kích."
Ánh mắt Kha Thư Hàn trở nên rõ ràng hơn nhiều, vỗ tay nói: "Bùi nương tử nói có lý, suýt chút nữa thì ta đã hồ đồ mất rồi.
Chúng ta có Đồng Quan là lá chắn thiên nhiên, như có thần tiên trợ giúp, ngàn vạn lần không được ra khỏi quan.
Người đâu, truyền lệnh xuống, gia tăng phòng bị, bế quan tử thủ, tuyệt đối không ra khỏi quan."
Kể từ ngày đó, Kha Thư Hàn tìm một Phụ tá lâm thời, gọi Hi Lam cùng mưu tính kế hoạch giết giặc với ông ta.
Hi Lam nghĩ ra đủ loại chiến thuật giả thần giả quỷ hù dọa quân địch, Kha Thư Hàn vỗ bàn khen hay, nói nếu có thể đánh bại An Lộc Sơn, vậy thật đúng là xưa có Phì Thủy (1), Xích Bích (2), nay có rừng đào Đồng Quan.
Hi Lam cũng hết sức vui vẻ, hẹn với ông ta sau khi chiến thắng khải hoàn trở về, nhất định sẽ cùng nhau uống ba trăm chén, không say không về.
Kha Thư Hàn cười nói, chỉ sợ ông già như ta phải về trước rồi.
(1) Trận Phì Thủy là trận đánh nổi tiếng năm 383 thời Đông Tấn - Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa quân Tiền Tần và quân Đông Tấn.
Trận chiến Phì Thủy, với đại thắng của quân Đông Tấn, được đánh giá là trận đánh quan trọng nhất thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc, và cũng được xem là một trong những trận "lấy ít thắng nhiều" tiêu biểu nhất trong lịch sử.
Ngoài ra, trận đánh này được xem là một trong những trận chiến lừng danh nhất trong lịch sử Trung Quốc.
(2) Trận Xích Bích là một trận đánh lớn cuối cùng thời Đông Hán có tính chất quyết định đến cục diện thời Tam Quốc.
Trận đánh diễn ra vào mùa đông năm Kiến An thứ 13 (tức năm 208) giữa liên quân Tôn Quyền - Lưu Bị với quân đội lấy danh nghĩa triều đình của Tào Tháo.
Trận Xích Bích kết thúc với chiến thắng quyết định của phe Tôn-Lưu trước đội quân đông đảo hơn của Tào Tháo.
Kế hoạch thì rất hay rất đẹp nhưng hiện thực thì lại bị thúc giục rất đau thương.
Cho dù binh thư, kế hoạch của Kha Thư Hàn và Hi Lam có toàn diện đến thế nào cũng không chịu nổi một đạo sắc chỉ của Thiên Tử.
Sau khi triều đình nhận được tin tức của kẻ địch, Lý Long Cơ hạ chiếu ra lệnh cho Kha Thư Hàn lập tức xuất binh, thu phục Lạc Dương.
Nhận được sắc chỉ, mặt mũi Kha Thư Hàn trắng bệnh, vội vàng dâng tấu giải thích nguyên do kỹ càng.
Ngay lúc đó, Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật liên tiếp đánh bại Sử Tư Minh mấy lần ở Hà Bắc cũng giúp Kha Thư Hàn ra sức giữ vững sách lược không ra ngoài.
Lý Long Cơ không ngừng dao động, Dương Quốc Trung lại giận dữ đến mức dựng râu trợn mắt, cảm thấy Kha Thư Hàn vì lợi ích của bản thân mới từ chối không đánh, cứng rắn dùng ba tấc lưỡi không xương khiến Lý Long Cơ tin tưởng rằng Kha Thư Hàn là một kẻ tầm thường, nhát gan, ích kỷ, già yếu không còn dùng được nữa.
Lý Long Cơ liên tiếp phái sứ giả đưa chiếu chỉ đến Đồng Quan, thúc giục Kha Thư Hàn đón đánh phản quân của An Lộc Sơn, Kha Thư Hàn phải giả chết bốn lần.
Đầu tháng Sáu, Nhan thị huynh đệ ở Thường Sơn* cũng nổi binh phản kháng phản quân An - Sử, các châu, quận chung quanh cũng mạnh mẽ ủng hộ, cũng hưởng ứng theo, cho nên đã chặt đứt đường lui của phản quân nếu muốn quay về phương Bắc.
Kha Thư Hàn nghe thấy tin này thì vô cùng kích động, nghĩ tên cẩu tặc An Lộc Sơn này chết chắc rồi, đang định dâng tấu lần thứ hai về phía triều đình, sứ giả lại đến Đồng Quan truyền chiếu chỉ lần thứ năm, nói nếu Nguyên soái tiếp tục kháng chỉ, từ chối không xuất binh sẽ bị tru di tam tộc.
Hi Lam ở ngoài lều nghe thấy, sợ đến mức rơi cả quạt xuống đất, lông bay tán loạn.
Kha Thư Hàn đấm ngực khóc rống lên: "Lang sói vào kinh, số mệnh Đại Đường ta đã tận rồi!"
*Ý để chỉ hai anh em họ: Thái thú Bình Nguyên Nhan Chân Khanh, Thái thú Thường Sơn Nhan Cảo Khanh
Sáng sớm ngày mùng bốn, Hi Lam ở trên vách núi Đồng Quan nhìn xuống, thấy Kha Thư Hàn xuất ra mười tám vạn binh, cờ bay che khuất mặt trời, đao kiếm như rừng, từ từ đi về phía bình nguyên phía Tây Linh Bảo*.
Đến lúc mặt trời lặn, khói cuồn cuộn ở phía xa, lửa cháy hừng hừng, tiếng than khóc tuyệt vọng kêu gào đến mức ngay cả trên đỉnh núi cũng nghe thấy.
A Ni Man nhìn về nơi giao chiến phía xa xa, hơi mong chờ hỏi: "Bên đó đánh giết kịch liệt như vậy, là bên ta đang thắng sao?"
*Linh Bảo: thành phố trực thuộc quận.
Nếu "bên ta" là để chỉ bên phía cha ruột của ngươi, vậy thì ngươi nói đúng rồi.
Hi Lam nghĩ trong lòng như vậy nhưng chỉ quay đầu lại, nhìn về phía phương hướng Trường An ở phía Tây, lặng lẽ thở ra một tiếng thật dài.
Ban đêm Kha Thư Hàn chật vật trốn về, lúc vượt qua sông Hoàng Hà đến phía Tây, phía sau ông ta chỉ có một trăm tàn binh.
Sĩ khí sụp đổ, đường lại tối đến mức duỗi tay không nhìn thấy năm ngón, lương thực của quân Đường đều rơi xuống chiến hào phía ngoài Đồng Quan, chỉ trong thời gian chớp mắt đã san bằng cả chiến hào.
Sau đó những binh tốt giẫm đạp nên thi thể đồng đội trốn về Đồng Quan.
Mười tám vạn đại quân, cuối cùng chỉ còn tám ngàn người, rừng đào bên ngoài Đồng Quan cũng bị máu nhiễm thành một mảnh màu đỏ loang lổ.
Có lẽ là non sông đất nước mất đi khiến người ta không tránh khỏi sầu não, ban ngày Hi Lam cổ vũ tàn binh bại tướng trong quân doanh, điều khiển việc đưa thuốc, chữa thương cho bọn họ, đến đêm khuya khi nằm một mình trên giường thì lại trằn trọc mất ngủ suốt một canh giờ mới ngủ được.
Nàng mơ rất nhiều giấc mơ lộn xộn, cái nào cũng có liên quan đến kiếp trước, trong mộng nàng tìm kiếm Dật Sơ ở khắp nơi, nhưng phần lớn trong đó ngay cả bóng dáng hắn cũng không thể nhìn thấy được.
Trong giấc mơ cuối cùng, rốt cuộc nàng cũng đã thấy Dật Sơ, bọn họ về đến núi Diêu Quang, cùng ngồi trên đỉnh vách núi cao ba nghìn nhận, nhìn vầng mặt trời rực rỡ phía xa xa và vạn dặm biển mây.
Nàng dựa vào vai Dật Sơ, Dật Sơ nắm tay nàng.
Nàng khẽ nói, nếu như có thể tiếp tục như vậy cả đời, thật là tốt biết bao.
Bây giờ nàng hơi hối hận lúc trước đã rời khỏi đây.
Dật Sơ nói, Lam Lam, ta rời khỏi núi Diêu Quang là để bảo vệ thiên hạ, cũng là bảo vệ nàng, cho nên ta chưa từng hối hận.
Nếu ngay từ đầu đã có kết cục như vậy, ta sẽ không suy xét đến chuyện rời khỏi núi Diêu Quang.
Chúng ta sinh cùng nơi nhưng lại chết không cùng huyệt, mặc dù kết cục không được xem là viên mãn, nhưng ta với nàng dù sao cũng đã là phu thê cả đời.
Nếu không phải nguyên thần của ta đã hao hết, không còn cơ hội chuyển thế nữa, ta nhất định tìm thấy nàng trong ngàn vạn luân hồi, cùng nàng ân ái đến đầu bạc đời đời kiếp kiếp một lần nữa.
Nàng túm chặt lấy cánh tay hắn nói, chàng đừng làm ta sợ, ta nói trước là ta chỉ hù dọa chàng thôi.
Năm đó, trong ngọn lửa Hồng Liên, ta không tự thiêu mình hoàn toàn, ta chuyển thế, chàng nhất định phải đến tìm ta.
Dật Sơ cười nói, Lam Lam của chúng ta vẫn luôn thông minh như thế, vẫn luôn chừa đường lui cho mình.
Đáng tiếc ta không được thông minh như nàng, cũng không có mắt nhìn, vĩnh viễn ta không đấu lại nàng.
Nàng sốt ruột đến mức khóc òa lên, nói nàng sai rồi, xin hắn hãy ở lại.
Hắn lau nước mắt nàng nói, vốn người phụ lòng là ta, người nên xin lỗi cũng là ta.
Nàng xin lỗi lại càng khiến ta thêm tự trách.
Đáng tiếc là chuyện đã như vậy rồi, không ai trong chúng ta có thể thay đổi được lịch sử.
Thời gian của ta không còn nhiều lắm.
Nào, để ta ôm nàng thêm một lúc nữa...
Mấy ngàn năm qua, kiếp trước kiếp này, nàng không quên được biết bao nhiêu ngày đêm lẻ loi ngồi dựa trong sương mờ khói nhạt.
Đã chờ lâu như vậy, chỉ là chờ mong mỗi ngày có thể nhìn hắn nhiều thêm một chút.
Đã bao nhiêu lần miễn cưỡng cười vui cũng chỉ mong chờ những ngày còn nhìn thấy hắn có thể kéo dài thêm một chút.
Nàng thật sự, thật sự chờ lâu lắm rồi, lâu đến mức đã quên ban đầu nàng định chờ để làm gì.
Nàng dựa vào trong ngực hắn, ngay cả khóc cũng không dám tạo ra chút tiếng động nào, sợ cơ thể run rẩy cũng có thể khiến hắn tan thành mây khói.
Trong mơ nàng cũng biết đó chỉ là giấc mơ.
Nàng hi vọng đêm có thể dài hơn một chút.
Chỉ mong có thể tiếp tục mê man trong giấc mộng, mãi mãi không cần phải tỉnh dậy nữa.
Chỉ là, cho dù nàng cẩn thận đến thế nào, cuối cùng hắn vẫn biến thành một làn khói nhẹ, lặng lẽ tan đi, không để lại chút gì.
Trong mơ, dường như ba ngàn năm đã trôi qua, nhưng Hi Lam xoay người mở mắt một cái, phát hiện trời bên ngoài còn chưa sáng, gối nàng đã ướt đẫm hơn một nửa.
Nàng châm nến, mài mực chuẩn bị viết một bức thư cho Dật Sơ, chỉ là trong mực lẫn thêm những giọt nước mắt còn sót lại, loãng đến mức không thể viết chữ được.
Nàng định lại mài thêm chút mực nhưng lại nghĩ lại một chút, tin tức chẳng thông, núi rộng sông dài, cho dù viết thư xong thì biết phải gửi đến đâu bây giờ?
Trong mơ, dường như nàng đã quay về thời thiếu nữ, cho nên hơi yếu ớt, thích khóc nhè.
Lúc này nàng đã tỉnh táo lại, cảm thấy cảm xúc rất bình tĩnh, muốn khóc cũng khóc không được.
Nàng buông bút nhìn núi Nam đồi Bắc hoa tươi, trăng cao chiếu rọi rưới đầy quân doanh*, nàng bỗng phát hiện, thì ra giang sơn Đại Đường vẫn không hề thay đổi, vẫn là dáng vẻ khi Khai Nguyên thịnh thế ấy, nhan sắc đỏ thắm trong gương cũng không thay đổi, vẫn là dáng vẻ như tám năm trước.
Chỉ là, cho dù là giang sơn hay là người, cũng bỗng già sau một đêm.
*Trích trong Chuyển ứng khúc của Đái Thúc Luân, kể về nỗi mong nhớ quê hương của những binh lính xa quê.
Năm ngày sau, Đồng Quan thất thủ.
Nghe nói Kha Thư Hàn lui về Quan Tây, vẫn dán bố cáo mời chào những binh sĩ thất lạc ở trạm dịch, muốn cướp lại Đồng Quan một lần nữa, nhưng lại bị một đội quân khác ép phải cởi giáp đầu hàng An Lộc Sơn.
Kha Thư Hàn thà chết không theo, bị đối phương cột vào chân ngựa kéo về Lạc Dương, sau đó sống chết không rõ.
Trường An vô cùng rối loạn, bá tánh nghe thấy tên của An - Sử thì sợ đến mức chạy trối chết.
Ngày xưa cung Đại Minh "ngàn quan như nhạn vào chầu đầu hôm" nay lại vắng vẻ tiêu điều, Lý Long Cơ được đám người Cao công công hộ tống hạ triều.
Dọc đoạn đường này, ông ta nhớ tới khi còn nhỏ tổ mẫu (1) từng tán gẫu về Đại Đường thời Thái Tông Hoàng đế thống trị, nhớ tới vẻ tang thương trên mặt tổ mẫu khi hoàng thúc ép tổ mẫu thoái vị trong chính biến Thần Long, nhớ tới bản thân mình liên thủ với cô mẫu tru sát Vi Hậu...!Vào năm ông ta hai mươi bảy tuổi đó, phụ thân nhường ngôi, ông ta đăng cơ xưng đế ở cung Thái Cực, trong lòng mang nhiệt huyết hừng hực không kiềm chế được.
Trên đoạn đường này, ông ta đã bước qua không biết bao nhiêu máu tươi, xương cốt của cố nhân, chứng kiến biết bao nhiêu sinh ly tử biệt của những người thân.
Trên có bầu trời xanh, cửu phượng hồi dương (2), phía dưới có lãnh thổ ngọa hổ tàng long, có hàng ngàn hàng vạn lê dân bá tánh tận mắt chứng kiến ông ta trở thành Hoàng đế Đại Đường.
Từ đó về sau, ông ta cần phải chăm lo việc nước, mở ra một trang sách tráng lệ nhất trong sử sách.
(1) Tổ mẫu của Lý Long Cơ chính là Võ Thái hậu, Võ Tắc Thiên.
(2) Ý chỉ chín mặt trời trong thần thoại Trung Quốc
Cho đến trước khi Đồng Quan thất thủ, ông ta vẫn cảm thấy những năm Khai Nguyên thịnh thế vẫn rõ ràng trước mắt như trước; thoáng kinh hồng khi lần đầu gặp mặt Ngọc Hoàng chẳng qua cũng mới là chuyện hôm qua.
Cho đến khi ngồi trên long ỷ, thấy quan viên vào triều chỉ có ba người, bọn họ vẫn cúi đầu bái lạy hô "Ngô hoàng vạn tuế" rất quy củ, giọng yếu ớt không nghe thấy rõ.
Bây giờ mặc dù lấy thân hi sinh vì giang sơn, khi xuống đất gặp lại Trần Hậu Chúa*, sợ cũng không còn mặt mũi nào nhắc đến "Ngọc thụ Hậu Đình hoa"*.
*Trần Thúc Bảo( 553-604, trị vì 582-589), thường được biết đến trong sử sách là Trần Hậu Chúa, thụy hiệu Trường Thành Dương công, tên tự Nguyên Tú, tiểu tự Hoàng Nô, là vị hoàng