"Gâu gâu".
Con Maxi sủa lên hai tiếng khi tôi đi ngang qua cái ổ của nó.
Không hiểu sao tôi lại rẽ sang hướng đó.
Tôi đã không đi qua con đường này từ lâu, sợ rằng những ký ức tươi đẹp ùa về sẽ làm cho thực tại càng thêm tăm tối.
Tôi đã muốn bỏ đi, nhưng tiếng gọi của nó lại vang lên, như một sợi dây vô hình, giữ cho chiếc xe tôi không lăn nổi bánh.
Cắn chặt môi và hít một hơi thật sâu, tôi quay lại nhìn nó.
Cái đầu nó nghênh nghênh, nghiêng qua nghiêng lại nhìn tôi.
Rồi nó sủa lên liên hồi và vẫy đuôi liên tục.
Tôi ngồi xuống ôm lấy con chó, mặc cho nó liếm láp trên gương mặt khô héo của mình.
Tôi có phải là chủ của nó đâu, mà tôi cũng đã bỏ rơi nó lâu như vậy, sao nó vẫn còn vui mừng đến thế khi thấy tôi? Phải chi nó lạnh lùng xua đuổi tôi, thì tôi đã có thể quên được thêm một phần ký ức của mình.
Nó đã gieo vào người tôi một hạt giống, không biết là của loài hoa gì, nhưng tôi không thể nhổ bỏ đi được.
Dù sao cũng đã đến đây, tôi ghé qua thăm bà cụ vẫn chăm sóc con chó giúp tôi.
Tôi gọi nhưng không thấy ai trả lời, và cánh cửa thì vẫn đóng chặt.
Nhìn qua song cửa sổ, tôi thấy ảnh của bà trên bàn thờ.
Vậy là bà cụ cũng đi rồi.
Tôi có chút buồn, nhưng không nhiều lắm, và dường như chỉ là nỗi buồn trong suy nghĩ rằng tôi nên buồn.
Những cảm xúc của tôi đang bị chai sạn.
Tôi đã đối mặt với chuyện buồn nhất cuộc đời mình, chẳng còn gì có thể khiến tôi buồn thêm được nữa.
Tháng Ba đã đến, nhưng tháng Ba không còn xinh đẹp và mơ mộng như trước nữa.
Đạp xe lang thang trên các con phố, giữa những hàng hoa rực rỡ sắc màu được bày bán dọc các vỉa hè, nhưng tôi chỉ nhìn thấy chiếc bóng của chính mình dưới lòng đường.
Chiếc bóng không có gương mặt, không có cảm xúc.
Chiếc bóng là tôi, và tôi cũng là chiếc bóng.
Đi ngang qua một cửa tiệm bánh kem, tôi thấy một chiếc bánh giống hệt như chiếc bánh của một năm trước đó.
Một lớp kem dâu màu hồng nhạt, một bông hồng đỏ thắm và hai que bánh quế sô-cô-la bên trên.
Tôi đứng nhìn chiếc bánh, giống như một đứa nhóc đang nhìn món đồ chơi yêu thích, hay một cô gái đang say mê trước một chiếc váy lộng lẫy.
Người chủ cửa hàng nhìn tôi mỉm cười, và tôi cũng đáp lại bằng một nụ cười.
Về đến nhà, tôi đứng trước gương và nhìn chính mình trong đó.
Mái tóc bù xù rối vào nhau như một cái tổ quạ.
Hai hốc mắt lõm vào làm cho con ngươi bị trồi ra, trong khi mí mắt thì chỉ mở được một nửa.
Đôi môi nứt nẻ, những miếng da chết vẫn còn đọng lại như sáp nến.
Những sợi râu tua tủa như rễ tre, mọc lộn xộn trên lớp da mặt khô khốc.
Tôi nhắm mắt lại và cố nhớ về gương mặt của mình trong gương cách đây bốn tháng, nhưng chẳng thể nhớ được gì.
Nụ cười của người chủ tiệm bánh chợt hiện lên, một nụ cười thương hại, và hình ảnh phản chiếu của tôi trong đôi mắt đó chẳng khác nào một thằng ăn mày.
"Thằng ăn mày quá khứ", tôi vừa nghĩ về điều đó vừa nhìn chính mình trong gương.
Rồi tôi bắt đầu cười, sau đó là cười như điên dại, cười đến mức tràn cả nước mắt.
Một đôi mắt tò mò xuất hiện trong gương, phía sau khe cửa sổ.
Tôi ngưng cười và giả vờ như không nhìn thấy nó, thằng bé ở nhà đối diện.
Nhắm đôi mắt, tôi đưa tay chùi đi vệt nước trên mặt, hít một hơi thật sâu để kéo lớp chất nhầy vào lại trong xoang mũi.
Tôi đã hứa rồi, và tôi phải thực hiện lời hứa của mình.
Tôi không biết thế nào là sống tốt, nhưng trước hết phải sống đã.
Tôi mất khá lâu để dọn dẹp lại gương mặt của mình.
Tôi vụng về cạo lấy từng sợi râu, để lại một vết xước ngay giữa mặt.
Tôi thấm nước lên môi để gỡ đi những miếng da chết, nhưng vẫn bị lở loét khắp nơi.
Tôi chải lại cái đầu không biết bao nhiêu lần, nhưng mái tóc của tôi đã quen với việc bị rối tung rối mù.
Tôi đập con heo đất đã bị bỏ đói lâu ngày của mình và moi hết tất cả ruột gan của nó ra.
Số tiền không nhiều lắm, nhưng vừa đủ.
Tôi đạp xe ra chỗ tiệm bánh để mua cái bánh kem ấy.
Người chủ tiệm không nhận ra tôi, nhưng nụ cười của tôi thì làm cho đôi mắt ấy cứ nghi hoặc mãi, cho đến tận lúc tôi rời đi.
Con Maxi mừng rỡ lúc lắc cái mình và vẫy đuôi khi thấy tôi đến.
Tôi chia cho nó nửa phần bánh bông lan bên trong và hai cái bánh quế, còn tôi thì ăn hết kem và phần bánh còn lại.
Tôi chỉ đem cái bánh đến đó và ăn, không hát hò, không thắp nến, cũng không ước nguyện gì cả.
Tôi vuốt nhẹ trên lưng nó, con chó khẽ vẫy đuôi rồi lại cắm cúi ăn.
Tôi bắt đầu ngồi huyên thuyên với con Maxi về nhiều thứ.
Tôi kể cho con chó nghe rằng mình đã từng ghét đứa con gái ấy như thế nào, khi nó cứ mượn đồ rồi không trả.
Không phải tôi không muốn đòi lại, nhưng dù sao thì những cây bút tôi cho nó mượn toàn là những cây gần hết mực, còn gôm tẩy thì cũng nhặt được dưới hộc bàn.
Vậy mà sau đó chúng tôi lại trở nên thân nhau, nhờ những cái bánh và những cuốn truyện tranh.
Cũng vì đứa con gái đó mà những giờ học đã không còn nhàm chán, và việc đến lớp không còn là một nghĩa vụ đối với tôi nữa.
Tôi kể cho con chó nghe những mùa hè đã tươi đẹp trở lại như thế nào, và chúng tôi bắt đầu thích nhau ra sao.
Tôi nói về những nụ hôn của mình, mà dư vị của chúng đến bây giờ vẫn còn đọng lại trên môi, và khắc sâu vào tận tâm hồn.
- Bọn tao đã từng ước ao nhiều thứ, - Tôi nhìn con Maxi đang chóp chép miếng bánh và nói - Nhưng chẳng có điều ước nào thành hiện thực cả.
Chẳng có một phép màu nào có thể làm được điều đó, kể cả phép màu của thời gian.
Mà thực ra, thời gian đối với tao cũng chẳng có gì là ghê gớm cả.
Nếu như gặp được vị thần điều khiển thời gian, tao sẽ nói với