Vào một ngày đẹp trời đầu tháng Bảy, tôi theo ba vô rẫy chơi để khuây khỏa nỗi buồn chán trong lòng.
Và tôi cũng sớm quên đi những nỗi buồn ấy thật.
Ba tôi và tôi ở cùng nhau trong một ngôi nhà nhỏ, được đắp lên một cách đơn sơ bởi những cục đất lấy từ cái gò mối gần đó.
Những cây cột, cây xà bằng gỗ cong vênh, chắp nối với với nhau bởi những sợi thừng làm từ xơ dừa thô ráp.
Một cái hang của lũ mối gỗ như con rắn nhỏ đang cuộn lấy cây cột nhà.
Những chiếc tàu dừa khô màu nâu sẫm được lợp lên trên bộ khung ấy và bện lại với nhau một cách khéo léo, đủ để che nắng và che mưa cho chúng tôi.
Trong nhà chỉ có một chiếc giường gỗ cũ kỹ dựng sát vách, bên cạnh ô cửa sổ nhỏ.
Mỗi buổi tối, khi nằm trên cái giường ấy, tôi thường lăn qua lăn lại để nó phát ra tiếng kêu "cót két", và nhìn vầng trăng cùng những vì sao trên bầu trời, qua hai cái song cửa sổ èo uột như hai cái bánh ống.
Phía sau nhà chỉ có một gian nữa để làm bếp.
Ở đó có một cái ấm nước, một cái nồi và hai cái xoong nhỏ.
Tất cả đều dính đầy nhọ nồi đen nhem nhẻm.
Trong một cái rổ nhỏ bằng nứa là vài cái chén đầy vết sứt ở miệng và mấy cây đũa tre mà chiếc nào cũng lệch nhau.
Bên cạnh đó là những chai lọ đựng muối, đường, dầu ăn, được đặt trên những viên đá vuông vức.
Cái bếp lửa chỉ là một cái vòng sắt có ba cái chân cắm xuống nền đất, ở giữa còn có vài cọng rơm và bã mía đang cháy dở, nằm trên đống tro tàn màu xám trắng.
Bức tường phía sau cái bếp đã bị cháy đen, những vệt muội than giống như bức tranh thủy mặc vẽ một đốm lửa đang cháy.
Ba tôi thường nấu nước bằng cái ấm để pha cà phê, nấu cơm bằng cái nồi và kho cá, nấu canh trong hai cái xoong nhỏ.
Nồi cá kho của ba tôi lúc nào cũng mặn chát nên phải ăn cả tuần mới hết.
Bên hông nhà có một cái giếng, nước của nó không trong như cái giếng ở thành phố và có vị chua chua.
Để dùng được nước đó, chúng tôi phải lọc lại bằng một cái lu đựng đầy than củi, sỏi, cát và nhiều thứ nữa mà tôi không biết hết.
Bên cạnh giếng nước là hai gốc dừa, nơi mà ba tôi hay mắc một cái võng và nằm ôm tôi đung đưa vào những đêm trăng sáng.
Đôi lúc, nghe những tiếng "bịch bịch" bên tai, tôi lại sợ những trái dừa rơi xuống trúng đầu mình, hay lỡ như mình ngủ quên và rơi xuống cái giếng không có thành ấy.
Gần cái giếng còn có vài luống rau nhỏ, được một giàn khổ qua che ở bên trên.
Lúc những cọng rau đã được hái đi, tôi thường chui xuống dưới cái giàn ấy, tưởng tượng như đang ở trong một túp lều được trùm bằng tấm vải màu xanh.
Sau khi khám phá hết ngôi nhà và mảnh vườn nhỏ của mình, tôi đi xa hơn về phía khu đất đằng sau.
Càng đi xa, tôi càng thấy thế giới này rộng lớn mà tôi không thể nào biết hết được về nó.
Tôi thấy những cây mít mà trái to bằng cả một chú heo con.
Những cây khoai mì mọc đều nhau như đám học sinh đang xếp hàng tập thể dục.
Những cây mía mọc san sát mà tôi tìm mãi cũng không thấy một kẽ hở nào.
Tôi bắt đầu đi xa hơn nữa và thấy những cây xoài cao lớn đang mùa ra hoa kết trái.
Những trái xoài nặng trĩu dưới những cái cuống dài, trông như cái bóng đèn dây tóc màu xanh, không có chụp đèn và được treo lủng lẳng trên sợi dây điện.
Tôi lang thang và tìm thấy một cây xoài cổ thụ.
Nó đứng một mình giữa một khoảng đất rộng lớn, tán lá rậm rạp phủ xuống gần chạm đất và ôm lấy cả một vùng không gian bên trong, như một ngôi nhà nhỏ.
Đi quanh "ngôi nhà" mới của mình, tôi thấy một chỗ mà lá cây được tỉa theo hình vòng cung, tạo thành lối vào.
Bên trong "ngôi nhà" ấy chẳng có gì ngoài những cành cây đâm ngang xỉa dọc, và dưới đất là một lớp lá khô kêu xào xạc mỗi khi giẫm lên.
Tôi thấy một cành cây cao ngang tầm mắt, to như bắp đùi của ba tôi.
Tôi thích thú leo lên và nằm trên "chiếc giường" mới ấy, nhìn tia nắng mỏng manh đang cố gắng xuyên qua những chiếc lá.
Tôi lắng nghe những giai điệu của gió xen lẫn tiếng ve râm ran, những âm thanh mà ở thành phố không thể nào nghe được.
Nhớ lại cây khế nhà bà nội, tôi nằm lắc lư bàn chân và gặm một trái xoài xanh vừa mới hái.
Xoài chua lét, nhưng tôi vẫn ăn hết cả trái.
Răng tôi bắt đầu tê tái khi gặm đến cái hột, chỉ để lại những miếng xơ mỏng.
Vứt đi cái hột xoài, tôi nằm lim dim đôi mắt và quên cả thời gian.
Cho tới khi nghe thấy tiếng ba tôi hốt hoảng gọi, tôi mới nhìn xuống khe hở giữa tán cây và mặt đất.
Mọi thứ đang dần trở nên tối đi.
Tôi chạy ra khỏi "ngôi nhà" và nhìn về phía chân trời đang tắt nắng.
Hoàng hôn ở đây rất đẹp, nhưng dường như buông xuống nhanh hơn ở thành phố.
Tôi sợ mình chạy không kịp bóng đêm đang dần kéo đến, vội vàng í ới đáp lại tiếng ba tôi và lao về hướng ngược lại với những tia nắng.
Tôi cảm thấy